Wednesday, 8 July 2009

TÌM HIỂU NGÀY 'SINH NHẬT' CỦA CHÚA GIÊSU KITÔ

TÌM HIỂU NGÀY 'SINH NHẬT' CỦA CHÚA GIÊSU KITÔ
TÌM HIỂU NGÀY 'SINH NHẬT' CỦA CHÚA GIÊSU KITÔ magnify
Tài liệu: Tìm hiểu ngày "sinh nhật" của Chúa Giêsu Kitô - Lm Anphong Trần Đức Phương 16/12/2008



Lượt đọc : 830 in bài viết Copy To Clipboard Font Arial Tahoma Times New Roman size 8 10 12 14 16 18 20 22




TÌM HIỂU NGÀY 'SINH NHẬT' CỦA CHÚA GIÊSU KITÔ

Tại Hoa Kỳ, cứ sau lễ Tạ Ơn (Thanksgiving) nhiều gia đình và nhà hàng bắt đầu trang hoàng trong nhà, cũng như trước cửa nhà để chuẩn bị vào mùa Lễ Lớn: Đại Lễ Giáng Sinh và Năm Mới sắp tới. Một cách đơn giản chúng ta thường hiểu Lễ Giáng Sinh là ngày lễ mừng 'Sinh Nhật' (Birthday) của Chúa Giêsu (Thí dụ, ngày 25 tháng 12, 2008 là ngày sinh nhật thứ 2008 của Chúa Giêsu). Tuy nhiên, nghiên cứu lịch sử về ngày lễ nầy, chúng ta thấy có những điều không hẳn đơn giản như vậy.

Một chút lịch sử ơn cứu độ

Theo truyền thống Do Thái mà nền tảng là Thánh Kinh Cựu Ứơc, sau khi tổ tông (Thủy tổ) loài người là ông Adong và bà Eva sa ngã phạm tội, liền bị mất ân nghĩa với Thiên Chúa (Sách Sáng Thế 3:23). Tuy nhiên vì "Thiên Chúa đã dựng nên con người theo hình ảnh của Chúa" (ST 1:27), Ngài không để con người phải án phạt đời đời, nên Ngài đã hứa ban một Đấng Cứu Thế đến để cứu chuộc tội lỗi nhân loại (ST 3:15) và danh hiệu của Ngài là 'Đấng Cứu Tinh' (Messiah). Nguyên ngữ trong tiếng Do Thái 'Messiah' có nghĩa là 'Đấng được xức dầu'. Theo thói tục của người Do Thái thì ai được chọn làm 'Vua' làm 'Tiên Tri' (Prophet) làm thầy 'Tư Tế' đều được phong chức chính thức bằng việc xức dầu (thánh) (dầu ô liu) trên đầu. Danh từ 'Messiah' chuyển dịch qua tiếng Hy Lạp là 'Christos'. Danh từ 'Christos' chuyển sang tiếng Latinh là 'Christus' và sang tiếng Pháp, tiếng Anh là 'Christ', Tiếng Việt Nam (theo các bản dịch Thánh Kinh của Công Giáo và các sách đạo đức) chuyển dịch là 'Kitô' (hay Kytô).

Theo Do Thái Gíáo thì Đấng 'Messiah' (Kitô) chưa tới cứu độ Dân Ngài. Hàng năm người Do Thái vẫn đến bên bức 'Tường Khóc' để cầu nguyện xin 'Đấng Cứu Độ' đến.

Theo Kitô Giáo thì 'Đấng Kitô' đã Giáng Sinh, và khi Ngài sinh ra thì được đặt tên là 'Giêsu' (Jesus) theo như lời Sứ thần truyền tin cho Đức Maria (Luca 1:31 và 2:21). Danh từ 'Giêsu' theo nguyên ngữ Do Thái có nghĩa là 'Đấng Cứu Độ' (Savior). Vì Chúa 'Giêsu' chính là 'Đấng Kitô' Thiên Chúa đã hứa, nên tên Ngài thường được gọi là 'Giêsu Kitô'. Thánh Phaolô trong các thơ gửi các giáo đoàn thường dùng danh hiệu 'Giêsu Kitô'. Chúng ta cũng nên lưu ý là vào thời xưa một người chỉ có 'tên gọi', chưa có 'tên họ' và 'tên đệm'; nhưng có những 'tên hiệu' ghép vào 'tên gọi' trong một số trường hợp, nhất là trường hợp của các vua chúa hay các 'Danh Nhân'.

Theo Kinh Thánh, Chúa Giêsu cũng được gọi là 'Emmanuel' hay 'Immanuel' ( Luca 1:23). Danh từ 'Emmanuel' trong tiếng Do Thái có nghĩa là 'Thiên Chúa ở cùng chúng ta'. Danh hiệu 'Emmanuel'đã được Tiên Tri Isaia (740-687 B.C.) nói đến ( Isaia 7:14).

Chúa Giêsu sinh ra năm nào?


Năm Thiên Chúa Giáng Sinh làm người được kể là năm thứ nhất theo lịch chung chúng ta dùng hiện nay; như thế sinh nhật của Ngài đã chia đôi lịch sử nhân loại.

Theo lịch sử Thánh Kinh thì từ 'tạo thiên lập địa' đến năm Chúa Giáng Sinh được gọi là 'Thời Kỳ Cựu Ước' và từ năm Chúa Giáng Sinh trở về sau được gọi là 'Thời Kỳ Tân Ước'. Theo lịch chung chúng ta dùng hiện nay thì trước thời Chúa Giáng Sinh gọi là trước 'Công Nguyên' (thường ký hiệu là B.C. 'Before the birth of Christ') và từ năm Chúa Giáng Sinh cho đến ngày 'tận thế' thì gọi là sau 'Công Nguyên' (thường ký hiệu là A.D. 'Anno Domini' 'Năm của Thiên Chúa').

Như vậy, thí dụ ngày 25 tháng 12 năm 2008 là ngày chúng ta mừng Sinh Nhật thứ 2008 của Chúa Giêsu Kitô. Tuy nhiên vì các nhà làm lịch lúc đầu tính lầm nên năm Chúa Giêsu giáng sinh bị lệch đi mất 6 hoặc 7 năm. Nếu tính đúng thì năm 2008 sẽ phải là năm 2014 (hoặc 2015). Nói một cách khác đơn giản hơn thì vào năm 2008 này tuổi của Chúa Giêsu đã là 2014 (hoặc 2015).

Lý do của việc 'tính lầm' nầy là vì vào thời xưa người ta chưa có lịch chung như ngày nay, nên thường tính năm theo triều đại của các vua (như 'Đời Vua Hùng Vương thứ 18'... chẳng hạn) hoặc theo một biến cố lịch sử nào đó ( như năm Tần Thủy Hoàng ra lệnh xây 'Vạn Lý Trường Thành' chẳng hạn). Các Thánh Sử khi viết sách 'Phúc Âm' (hay 'Tin Mừng') cũng dùng niên hiệu các vua cùng với những biến cố lịch sử nào đó. Thí dụ: Thánh Matthêu viết: 'Khi Chúa Giêsu ra đời tại Bêlem, miền Giuđêa, thời vua Hêrôđê trị vì... ( Matthêu 2:1... ). Thánh Luca viết: ' Vào thời Hoàng Đế Augustô ra 'chiếu chỉ kiểm tra dân số'... Khi Giuse và Maria đang ở Bêlem, thì Maria đến ngày sinh con... ( Luca 2:1... )

Khi Chúa Giáng Sinh thì nước "Do Thái" (vùng Palestina) đang dưới quyền 'đô hộ' của Đế Quốc Rôma. Lúc đó Đế Quốc Rôma đang cai trị nhiều vùng rộng lớn, bao gồm cả vùng Trung Đông. Hoàng Đế Rôma bấy giờ là Augustô. Còn vua Hêrôđê chỉ là một 'tiểu vương' thay mặt hoàng đế Rôma cai trị miền Giuđêa (phiá nam Palestina) và nhà vua không phải là người Do Thái. Vùng đất Palestina (nơi người Do Thái sinh sống thời đó) gồm ba miền: Galilê (Bắc), Samaria (Trung) và Giuđêa (Nam). Thành Bêlem nơi Chúa Giáng Sinh và thủ đô Giêrusalem nằm phiá nam, thuộc Giuđêa. Vua Hêrôđê này thường được gọi là vua ' Hêrôđê Cả' (Herod the Great) để phân biệt với Hêrôđê 'Antipa' là con. Vua ' Hêrôđê Cả' là người đã tiếp kiến các nhà đạo sĩ phương đông đến triều yết để hỏi đường đến chiêm bái Vị Vua Mới Sinh (Matthêu 2:1...). Cũng nhà vua nầy đã ra lệnh 'giết các hài nhi mới sinh từ hai tuổi trở xuống...' (Matthêu 2:16...). Vì thế Thánh Giuse phải đưa 'Hài Nhi và Mẹ Người trốn sang Ai Cập (Matthêu 2, 13...). Theo các sử gia thì nhà vua này chết vào năm 4 trước Công Nguyên, tức là sau khi Chúa Giêsu sinh ra chừng 3 hay 4 năm (vì Chúa Giêsu sinh ra vào năm 6 hay 7 trước Công Nguyên, do nhà làm lịch tính lầm năm, như đã nói trên). Khi Thánh Giuse nghe tin nhà vua đã chết, liền đem Đức Maria và Chúa Hài Nhi trở lại quê hương (Matthêu 2,19...) (Như vậy là Thánh Giuse, Mẹ Maria và Chúa Hài Nhi Giêsu cũng đã phải trải qua một thời 'di cư' sống nơi 'đất khách, quê người' như nhiều người Việt Nam chúng ta hiện nay!).

Hêrôđê Antipa (Con của Hêrôđê Cả) là người đã ra lệnh xử trảm Thánh Gioan Tiền Hô (PÂ Matthêu 14:4). Nhà vua này cũng là người đã ''Rất mừng rỡ khi gặp mặt Chúa Giêsu...'' (PÂ Luca 23:6...) khi Người bị bắt và đang bị xử án.

Nếu tính theo triều đại Hoàng Đế Rôma Augustô, thì Chúa Giêsu sinh ra vào 'đời Hoàng Đế Augustô thứ 20'.

Thực ra người chủ trương lấy năm Chúa Giêsu sinh ra là năm I để bắt đầu Công Nguyên là ông Diônisiô (khoảng năm 556) đã tính lầm năm sinh của Chúa, vì ông căn cứ vào năm xây dựng thành Rôma và tính là Chúa giáng sinh vào cuối năm 753 sang năm 754 (sau khi thành lập thành Rôma) , rồi ông lấy năm 754 là năm I cuả Công Nguyên. Nhưng sau này các sử gia và các học giả Kinh Thánh nghiên cứu lại các thời đại Hoàng Đế Augustô và vua Hêrôđê Cả mới thấy là Chúa Giêsu phải sinh ra sớm hơn; vì thế, Chúa Giêsu bị ghi hụt đi mất 6, 7 tuổi và cũng vì thế mừng sinh nhật cúa Chúa năm 2008 chính ra đã là năm 2014 (hay 2015).

Tóm lại, năm Chúa Giêsu Kitô Giáng Sinh.
+Cách thời của Abraham: 21 thế kỷ;
+Cách Maisen với công cuộc xuất hành khỏi Ai Cập: 13 thế kỷ;
+Cách thời bà Ruth và các thẩm phán: 11 thế kỷ;
+Cách thời vua David được xức dầu phong vương: một ngàn năm;
+Cách năm đại hội Olympics đầu tiên: 776 năm (Đại Hội thứ 194);
+Khoảng 747 năm sau khi thành lập Thành Rôma.

(Qúy vị có thể xem thêm tài liệu trong các sách chú-giải về Kinh Thánh hoặc đọc phần Dẫn Nhập vào Kinh Thánh Tân Ước trong các bản dịch Kinh Thánh của Linh Mục Nguyễn Thế Thuấn; hoặc của Nhóm Phiên Dịch Các Giờ Kinh Phụng Vụ; hoặc trong The New American Bible; hoặc trong Bible de Jerusalem).

Chúa Giêsu sinh ra ngày nào?

Đọc tiểu sử của các 'vĩ nhân' trên thế giới thời xưa, chúng ta thường không thấy nói đến ngày sinh; chẳng hạn Socrate (khoảng 470-399 BC) hay Platon (khoảng 428-348 BC) v.v... Ngay các cụ người Việt Nam chúng ta bây giờ, nhiều vị cũng không nhớ 'ngày sinh, tháng đẻ' của mình; nhiều cụ chỉ nhớ là tuổi'Mùi' hay tuổi 'Thìn'. Ngay cả ngày tháng năm sinh của các cụ trên giấy khai sinh cũng không đúng hẳn... Ngày sinh của Chúa Giêsu cũng không được ghi lại đầy đủ trong các sách Phúc Âm (Tất nhiên Chúa Giêsu cũng không có giấy khai sinh hay sổ bộ khai sinh...)

Nhưng tại sao lại mừng ngày Chúa Giêsu ra đời vào 25 tháng 12 hằng năm?

Thực ra, trong ba thế kỷ đầu (các Kitô hửu chỉ họp nhau để kỷ niệm việc Chúa Giêsu đã chịu đau khổ, đã chịu chết và đã sống lại. Đặc biệt tụ họp vào ngày thứ nhất trong tuần (Ngày Chúa Giêsu sống lại từ cỏi chết, Gioan 20,1...) và gọi ngày này là 'Chúa Nhật'. Việc cử hành phụng vụ này gọi là 'Nghi Lễ Bẻ Bánh' (ý nói đến việc cử hành nghi lễ 'Thánh Thể') (Tông Đồ Công Vụ đoạn 2, câu 42...). Trong những cuộc 'họp mặt' này, các Kitô hữu cùng gặp gỡ nhau, chia sẽ tình thân hữu và niềm tin, rồi cùng nhau cầu nguyện và dự 'Lễ Thánh Thể' (Nghi Thức Bẻ Bánh). Lúc đầu chưa có các 'Thánh Đường', nên thường tùy tiện họp mặt tại các tư gia hay nơi nào có thể được, như tại 'hành lang Salomon' (TĐCV 5:12...). Tuy nhiên việc 'Cử Hành' này cũng không được đều đặn, vì ngay từ lúc đầu các Kitô đã bị bách hại và xua đuổi. Đọc sách 'Tông Đồ Công Vụ' (The Acts of Apostles), ta thấy rõ điều này: trong khi các tông đồ và các tín hữu ra sức rao giảng 'Tin Mừng tình thương' của Chúa cho mọi người ở mọi nơi họ sống, thì họ cũng luôn bị những thế lực thù nghịch chống đối và bách hại; vì 'bóng tối' luôn thù nghịch 'Ánh Sáng'. Những người sống theo 'thế gian' thì thù ghét những ai sống ngược lại với lối sống của họ! Tất nhiên 'Thầy'của mình là Chúa Giêsu Kitô đã bị thù ghét, bị bắt, bị hành hạ và bị giết nhục nhã trên thánh giá, thì các môn đệ của ' Thầy'qua các thế hệ đều cũng bị bách hại cách này hay cách khác. Trong ba thế kỷ đầu thì các cuộc bách hại rất dữ dội ngay tại nơi đất nước quê hương của Chúa Giêsu và các tông đồ, và sau đó là ở khắp các nơi trong toàn Đế Quốc Rôma. Hơn nữa, lúc đó chưa có các tổ chức 'Bảo Vệ Nhân Quyền' hay 'Bảo Vệ Tự Do Tôn Giáo', nên các nhà cầm quyền tự do đàn áp và tàn sát các tín hửu và các vị lãnh đạo tôn giáo của họ, bất kể ở các chức vụ nào. Thánh Phêrô, vị Giáo Hoàng đầu tiên, Thánh Phaolô và các Thánh Tông Đồ đều tử đạo, trừ Thánh Gioan thì bị lưu đày cho đến chết. Các vị Giáo Hoàng tiếp theo cũng như các thành phần trong Giáo Hội đều bị xua đuổi, bị bắt, bị tù đày và bị giết thảm khốc (nhất là dưới thời Hoàng Đế Nêron).

Trong hoàn cảnh cực khổ đó, các vị lãnh đạo và các tín hữu tiếp tục giữ vững đức tin và tiếp tục rao giảng Tin Mừng và họp mặt cầu nguyện và cử hành nghi lễ 'Thánh Thể' bất cứ lúc nào và nơi nào có thể được để an ủi và nâng đỡ lẩn nhau trong cuộc sống đức tin đầy khó khăn như thế. (Xin xem thêm về chuyện các 'Hang Toại Đạo' 'Catacombs' tại Rôma ngày xưa). Cho mãi đến năm 313, khi một Hoàng Đế Rôma có tên là Constantinô Đại Đế (Constantine 'The Great', 280-337, theo đạo Công Giáo , Mẹ là Thánh Helene) ký hiệp ước Milan (Edit de Milan) để bảo đảm quyền tự do tôn giáo, lúc đó Giáo Hội mới được hưởng một thời kỳ an-bình (Paix de L'Eglise) và lúc đó, các Kitô hửu mới được hưởng chút tự do để thờ phượng Chúa và các Thánh Đường được xây cất, các buổi 'họp mặt' cầu nguyện, học hỏi Thánh Kinh và cử hành 'Lễ Thánh Thể mới được thường xuyên hơn. Tuy nhiên đến năm 336 mới thấy việc cử hành ngày Chúa Giáng Sinh (Christmas Day) xuất hiện trong lịch phụng vụ của Giáo Hội. Việc mừng Lễ Giáng Sinh của Chúa Giêsu chắc là trùng hợp với việc các Kitô hữu, khi đã được hưởng thời gian an bình để sống đạo, liền nghĩ đến việc hướng về quê hương của Chúa, nhất là nơi Chúa Giáng Sinh là thành Bêlem và hành hương kính viếng và chung tay xây cất Đền Thờ Chúa giáng sinh tại Bêlem vào năm 330.

Vì ngày Chúa Giáng Sinh không được ghi rõ ràng trong các văn kiện lịch sử cũng như trong các sách Phúc Âm, nên Giáo Hội đã chọn một ngày thích hợp là 25 tháng 12 là ngày gần với ngày đông chí (winter solstice), ngày ngắn nhất đã qua và ánh sáng lại trở lại... và vì thế các dân tộc Trung Đông thời cổ hay mừng 'ngày ánh sáng' vào 25 tháng 12; rồi Giáo Hội muốn thánh hóa ngày này bằng việc kính nhớ ngày Thiên Chúa Giáng Sinh 'Trời Đất Giao Hoà'. Như vậy ngày 25 tháng 12 không phải là ngày có tính cách lịch sử mà chỉ là ngày kỷ niệm mừng Chúa xuống trần để giao hoà với nhân loại và loan báo tin mừng cứu độ (xin xem thêm 'Preaching the Lectionary' của R. H. Fuller). Đây chỉ là một việc làm theo 'thuận tiện', tạm ví như nhiều cụ khi ở Việt Nam thì không có thói quen mừng ngày sinh nhật (birthday) (tất cả chỉ mừng vào dịp Tết); nhưng đến Hoa Kỳ, giới trẻ thích sống theo văn hóa địa phương, đã có thói quen mừng'sinh nhật', và cũng muốn các bậc cha mẹ có một ngày để mừng cho con cháu vui vẻ trong gia đình. Các cụ nào không nhớ được ngày sinh nhật chính thức của mình, đã chọn một ngày nào đó; chẳng hạn có cụ chỉ nghe cha mẹ nói là mình sinh vào dịp tháng tám mưa bão, liền chọn một ngày trong tháng 8. Có cụ chỉ nhớ cha mẹ nói là sinh vào giữa mùa gặt (ở ngoài bắc thì vào tháng 5) nên chọn một ngày vào tháng 5. Kể cả việc ngày giỗ của một số vị trong gia đình cũng không thể đúng ngày; nhiều gia đình có chồng con mất tích trong cuộc chiến, khi biết chắc là đã chết, liền chọn một ngày để kính nhớ (thường hay chọn vào ngày nghe tin mất tích...) Ông cụ trong gia đình chúng tôi, ngày xưa hoạt động cho Quốc Dân Đảng, khi Việt Minh nổi lên, họ mời đi họp để 'cộng tác làm việc cứu quốc' và từ ngày đó là biệt tích luôn. Sau đó gia đình biết chắc đã chết, nhưng không biết chết làm sao và vào ngày nào, nên đã chọn ngày 'rời gia đình' để con cháu 'khói hương' kính nhớ.

Vì ngày mừng lễ Giáng Sinh vào 25 tháng 12 hàng năm không xác thực theo lịch sử, nên thường có những ý kiến chống đối; đặc biệt vào thế kỷ 17 tại Anh Quốc, những người 'Thanh Giáo' (Puritans) đã nổ lực để yêu cầu xóa bỏ việc mừng lễ Giáng Sinh của Chúa Giêsu; nhưng mọi nổ lực đều thất bại, và việc mừng Chúa Giáng Sinh vào 25 tháng 12 hàng năm vẫn tiếp tục ở Anh Quốc cũng như khắp nơi trên thế giới. Hơn nửa, việc mừng lễ Giáng Sinh của Chúa không phải chỉ đơn thuần mừng ngày 'Sinh Nhật' của Chúa, mà còn có ý nghiã thiêng liêng chuẩn bị tâm hồn đón Chúa vào tâm hồn tín hữu, và ngày Chúa trở lại trần gian lần thứ hai trong ngày thẩm phán. Vì thế có gần một tháng để tín hữu chuẩn bị lễ Giáng Sinh, gọi là 'Mùa Vọng' (ngày xưa gọi là 'Mùa Áp') (Advent). Mùa Vọng là mùa Giáng Sinh khởi đầu niên lịch phụng vụ của Giáo Hội, tiếp theo là 'Mùa Thường Niên I', rồi đến 'Mùa Chay' (Lent) để chuẩn bị Đại Lễ Phục Sinh và Mùa Phục Sinh, rồi đến 'Mùa Thường Niên II' kéo dài đến 'Mùa Vọng' cho một niên lịch phụng vụ mới.

Nơi đây chúng tôi cũng xin nói thêm là trước lễ Giáng Sinh 9 tháng, Giáo Hội có một ngày mừng lễ đặc biệt gọi là 'Lễ Truyền Tin' (Annunciation) để kỷ niệm giờ phút sứ thần Thiên Chúa báo tin cho Đức Maria biết Thiên Chúa đã chọn Ngài làm người được diểm phúc cưu mang và sinh Đấng Cứu Thế... Và Đức Maria đã 'Xin Vâng' (Luca 1, 26...). Đây chính là giờ phút rất quan trọng trong lịch sử ơn cứu độ, giờ phút 'Trời Đất Giao Hoà', 'Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta (Gioan 1,14). Chính vì thế mà trong toàn Giáo Hội có thói quen nguyện 'Kinh Truyền Tin' vào ba lúc quan trọng trong một ngày: sáng, trưa, chiều. Khi nghe tiếng 'Chuông Nguyện' mọi tín hữu đều ngưng các công việc để nguyện 'Kinh Truyền Tin' mà nhớ đến giây phút quan trọng này: 'Và Ngôi Lời đã nhập thể trong lòng Đức Trinh Nữ Maria.' Rất nhiều nhạc sĩ, thi sĩ Công Giáo các nơi đã sáng tác các bài thánh ca hoặc các bài thơ diễn tả giây phút 'huyền nhiệm'nầy; đan cử như bài thơ của thi sĩ Hàn Mạc Tử, bài 'Theo Tiếng Thiên Thần xưa Kính Chào' của Hoàng Diệp, 'L'Annonce faite à Marie'' của Paul Claudel (văn hào Pháp).

Ngày nay lễ Giáng Sinh (có nơi gọi là lễ 'No-en' 'Noel') càng ngày càng lan rộng đi khắp nơi, đến cả các dân tộc ở các vùng hẻo lánh, và ngay cả các nước còn đang dưới chế độ 'Cộng Sản' như Cuba, Trung Quốc, Việt Nam, Bắc Hàn cũng không thể ngăn cản dân chúng rầm rộ mừng lễ No-en. Đáng tiếc là ngày nay người ta đã 'thương mại hóa' dịp lễ này mà làm giảm đi phần nào ý nghĩa thiêng cao cả. Tuy nhiên điều 'lạm dụng' đó cũng không thể làm giảm đi tinh thần mừng lễ đích thực trong lòng những người thành tâm thiện chí (Abusus non Tullit Usum) và họ được hưởng 'ơn phúc lộc' an bình trong tâm hồn và trong gia đình họ, như lời các Thiên Thần hát mừng trong đêm Chúa Giáng Sinh:

'Vinh Danh Thiên Chúa trên Trời,
Bình an dưới thế cho người thiện tâm!'

Kính chúc quí vị được hưởng nhiều ơn phúc lộc của Chúa trong dịp lễ Giáng sinh này, và những ơn phúc đó sẽ tràn lan sang Năm Mới, đem đến bình an thật của Chúa đến tâm hồn và gia đình mỗi người, cũng như cho toàn thể thế giới và trên quê hương Việt Nam chúng ta.

Lm Anphong Trần Đức Phương


Các bài viết có nội dung tương tự :
Tìm hiểu ngày "sinh nhật" của Chúa Giêsu Kitô - Lm Anphong Trần Đức Phương 16/12/2008
Sứ điệp ngày Hòa Bình Thế Giới 1.1.2009 - Giáo Hoàng Biển Đức 16

source

http://dcctvn.net/news.php?id=1378

Tags: | Edit Tags
Tuesday December 16, 2008 - 10:26pm (EST) Edit | Delete | Permanent Link | 0 Comments
Mầu nhiệm của ánh sáng và sự thiện
Mầu nhiệm của ánh sáng và sự thiện magnify
VietCatholic News (05 Dec 2008 14:56)
Mầu nhiệm của ánh sáng và sự thiện chiến thắng mầu nhiệm của tối tăm và sự ác

"Mầu nhiệm của ánh sáng và sự thiện chiến thắng mầu nhiệm của tối tăm và sự ác. Mùa Vọng mời gọi chúng ta nhận ra sự hiện diện của Chúa Giêsu Kitô suối nguồn ánh sáng và bước vào dòng sông ánh sáng, để trở thanh những người trao ban ánh sáng, tạo dựng hòa bình và làm chứng cho sự thật”. Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã khẳng định như trên trong buổi tiếp kiến hơn 8000 tín hữu và du khách hành hương sáng thứ tư 3-12-2008 trong đại thính đường Phaolô VI. Trong số các đoàn hành hương có nhóm tín hữu Việt Nam thuộc giáo xứ Đức Bà, Giorgia, Hoa Kỳ.

Trong bài huấn dụ Đức Thánh Cha đã khai triển đề tài giáo lý ”Tương quan giữa Ađam và Chúa Kitô”. Ngài nói:

Anh chị em thân mến, trong bài giáo lý hôm nay chúng ta sẽ dừng lại trên các tương quan giữa Ađam và Đức Kitô, như thánh Phaolô đã vạch ra trong một trang nổi tiếng của thư gửi tín hữu Roma (5,12-21), trong đó thánh nhân cống hiến cho Giáo Hội các đường nét chính của giáo lý về tội tổ tông. Thật ra khi nói về lòng tin vào sự sống lại trong thư gửi tín hữu Corintô, thánh nhân đã so sánh giữa nguyên tổ và Chúa Kitô: ”Qủa thế, như mọi người vì liên đới với Ađam mà phải chết, thì mọi người nhờ liên đới với Đức Kitô, cũng được Thiên Chúa cho sống... Con người đầu tiên là Ađam được dựng nên thành một sinh vật, còn Ađam cuối cùng là thần khí ban sự sống” (1 Cr 15,22.45). Với văn bản thư gửi tín hữu Roma chương 5,12-21 sự so sánh giữa Đức Kitô và Ađam trở thành chi tiết và soi sáng hơn: thánh Phaolô đi lại con đường lịch sử cứu độ từ Ađam cho tới Lề Luật và từ Lề Luật cho tới Đức Kitô. Trọng tâm của lịch sử đó không phải là Ađam với các hậu qủa tội lỗi của nhân loại cho bằng Đức Giêsu Kitô và ơn thánh, qua Người được đổ tràn đầy trên nhân loại, vượt xa tội lỗi của Ađam và các hậu quả của nó trên cuộc sống con người. Vì thế thánh Phaolô mới kết luận: ”Nhưng ở đâu tội lỗi đã lan tràn, ở đó ân sủng càng chứa chan gấp bội” (Rm 5,20).

Trong lòng tin của Giáo Hội ý thức tín điều về tội tổ tông đã chín mùi vì nó gắn liền với tín điều về ơn cứu rỗi và sự tự do trong Chúa Kitô. Do đó không được đề cập tới tội của Ađam và của nhân loại tách rời khỏi bối cảnh ơn cứu rỗi trong chân trời của sự công chính hóa trong Đức Kitô.

Nhưng mà tội tổ tông là gì, thánh Phaolô và Giáo Hội dậy gì về tội tổ tông? Nhiều người cho rằng dưới ánh sáng lịch sử tiến hóa, ngày nay không còn có chỗ cho một tội ban đầu rồi lan tràn trên toàn thế giới nữa. Và hậu qủa là cả vấn đề liên quan tới sự cứu rỗi và Đấng Cứu Thế cũng không còn nền tảng nữa. Như thế có tội tổ tông hay không?

Để có thể đưa ra câu trả lời chúng ta phải phân biệt hai khía cạnh: một khía cạnh kinh nghiệm cụ thể mà mọi người có thể sờ mó được, và một khía cạnh nhiệm mầu liên quan đến nền tảng bản thể học của sự kiện này.

Dữ kiện kinh nghiệm cụ thể đó là sự mâu thuẫn trong chính chúng ta. Một đàng mọi người đều biết là mình phải làm điều thiện, và tận sâu thẳm con người muốn làm điều thiện. Nhưng đồng thời nó cũng cảm thấy sức thúc đẩy làm ngưực lại, đi theo con đường của sự ích kỷ, bạo lực, chỉ làm điều nó ưa thích, cả khi biết làm như thế là chống lại sự thiện, chống lại Thiên Chúa và tha nhân. Trong thư gửi tín hữu Roma thánh Phaolô diễn tả nó như sau: ”Muốn sự thiện thì tôi có thể muốn, nhưng làm thì không; thật vậy sự thiện tôi muốn thì tôi không làm, nhưng sự ác tôi không muốn thì tôi lại làm” (Rm 7,18-19). Sự mâu thuẫn bên trong con người của chúng ta đó không phải là một lý thuyết. Mỗi người trong chúng ta đều sống kinh nghiệm này hàng ngày. Chỉ cần nghĩ tới các tin tức hàng ngày liên quan tới các bất công, bạo lực, dối trá, trụy lạc thì đủ biết. Chúng ta trông thấy nó mỗi ngày: đó là một sự kiện.

Hậu qủa của quyền lực sự dữ đó trong tâm hồn chúng ta phát triển trong lịch sử thành một dòng sông bẩn thỉu, làm ô nhiễm địa lý của lịch sử nhân loại. Tư tưởng gia người Pháp Blaise Pascal đã nói tới một ”bản tính thứ hai” chồng lên bản tính nguyên thủy của chúng ta. ”Bản tính thứ hai đó” khiến cho sự dữ trở thành bình thường đối với con người.

Kiểu nói ”đó là nhân bản” có hai nghĩa: nghĩa tốt ám chỉ điều mà một người phải làm như là người; nghĩa xấu ám chỉ sự gian dối sự dữ là điều bình thường. Sự dữ xem ra đã trở thành bản tính thứ hai của con người. Chính sự mâu thuẫn đó của con người, của lịch sử khơi dậy ước mong ơn cứu độ. Thật thế, ước mong thế giới này thay đổi là lời hứa tạo dựng một thế giới công bằng hòa bình, tốt lành hiện diện khắp nơi. Chẳng hạn trong lãnh vực chính trị: mọi người đều nói tới việc cần thiết phải thay đổi thế giới, phải tạo ra một thế giới công bằng hơn. Nó diễn tả ước mong một sự giải thoát khỏi sự mẫu thuẫn nội tại đó.

Đức Thánh Cha giải thích sự hiện hữu của sự dữ như sau:

Như thế sự kiện quyền lực sự dữ trong trái tim và trong lịch sử con người là điều không thể chối cãi được. Vấn đề đó là phải giải thích nó thế nào đây? Ngoài lòng tin Kitô ra, trong lịch sử tư tưởng có một mô thức giải thích chính, với các thay đổi khác nhau. Mô thức đó nói rằng con người mâu thuẫn, nó mang trong chính mình sự thiện cũng như sự dữ. Vào thời xa xưa người ta cho rằng ngay từ nguyên thủy đã có hai nguyên lý thiện ác bằng nhau. Đó là thuyết nhị nguyên không thể thắng vượt được. Sự mâu thuẫn trong con người chỉ là phản ảnh sự trái nghịch của hai nguyên lý đó. Trong quan điểm của thuyết tiến hóa vô thần thì ngay từ ban đầu con người đã mang trong mình sự thiện và sự ác rồi. Và lịch sử nhân loại chỉ phát triển mô thức đã có sẵn trong toàn sự tiến triển có trước. Điều mà tín hữu Kitô gọi là tội tổ tông thật ra chỉ là tính cách trộn lẫn sự thiện và sự ác thuộc bản chất con người. Đây là một quan điểm tuyệt vọng: nếu như thế thì sẽ không thể nào chiến thắng được sữ dữ. Và sau cùng thì chỉ có lợi lộc riêng tư là quan trọng. Và mỗi tiến bộ đều cần phải trả bằng một dòng sông sự dữ, và ai muốn phục vụ tiến bộ thì phải trả giá mắc mỏ đó. Nói cho cùng, chính trị được định hướng theo các tiền đề đó: và chúng ta trông thấy các hậu qủa của nó. Rốt cuộc tư tưởng này chỉ có thể tạo ra thái độ sống buồn sầu và vô luân.

Lòng tin như thánh Phaolô trình bầy xác nhận sự tranh đua giữa hai bản chất đó và và sự kiện bóng dáng sự dữ đè nặng trên thụ tạo. Chương 7 và chương 8 của thư gửi tín hữu Roma khẳng định sự hiện hữu của sự dữ. Trái ngược với hai thuyết nhị nguyên và nhất nguyên luận thê lương trên đây, lòng tin cho chúng ta biết có hai mầu nhiệm ánh sáng và một mầu nhiệm bóng tối, bị vây bọc bởi hai mầu nhiệm ánh sáng. Mầu nhiệm ánh sáng thứ nhất cho biết rằng không có hai nguyên lý, một tốt một xấu, mà chỉ có một nguyên lý là Thiên Chúa Tạo Hóa, và đó là nguyên lý tốt, không có bóng tối. Vì thế bản thể không phải là một trộn lẫn lành dữ, mà tự nó là tốt và do đó hiện hữu là tốt, sống là tốt. Đó là tin vui do lòng tin loan báo. Chỉ có một suối nguồn tốt lành là Đấng Tạo Hóa. Và vì vậy sống là một sự thiện, là nam hay nữ là một điều tốt lành, và sự sống tốt lành. Thế rồi có một mầu nhiệm của tối tăm. Sự dữ không đến từ suối nguồn của bản thể, không có từ nguyên thủy. Sự dữ đến từ một sự tự do được tạo dưng, một sự tự do bị lạm dụng.

Đức Thánh Cha nói thêm trong bài huấn dụ: Làm sao có thể xảy ra điều đó được? Đây là điều tối tăm khó hiểu. Sự dữ không có luận lý. Chỉ có Thiên Chúa và sự thiện là có luận lý, vì là ánh sáng. Sự dữ là điều bí nhiệm. Các hình ảnh lớn trong chương 3 sách Sáng Thế: hai cây sự sống và cây biết lành biết dữ, con rắn, con người tội lỗi chỉ giúp chúng ta đoán ra, nhưng không giải thích cái vô luận lý trong chính nó. Chúng ta chỉ có thể ước đoán chứ không giải thích hay kể lại như một sự kiện, vì nó là một thực tại sâu thăm hơn. Nó là một mầu nhiệm của tối tăm. Nhưng tiếp theo là một mầu nhiệm ánh sáng khác: đó là sự dữ là một suối nguồn bị chế ngự. Với ánh sáng của Ngài Thiên Chúa mạnh mẽ hơn. Vì thế có thể thắng vượt được sự dữ. Do đó con người có thể được chữa lành. Sách Khôn Ngoan nói rằng: ”Chúa đã dựng nên các quốc gia có thể chữa lành” (1,14 Volg).

Và điểm sau cùng đó là con người không chỉ có thể được chữa lành, mà đã thực sự được chữa lành. Thiên Chúa đã bước vào lịch sử loài người và chữa lành con người. Ngài đã chống lại suối nguồn dơ bẩn bằng suối nguồn tinh tuyền. Đức Giêsu Kitô bi đóng đanh, Ađam mới, dùng con sông ánh sáng chống lại con sông dơ bẩn. Và con sông này hiện diện trong lịch sử: chúng ta trông thấy nó nơi các thánh lớn nhỏ và các tín hữu đơn sơ. Chúng ta thấy dòng sông ánh sáng chảy ra từ Chúa Kitô hiện diện và mạnh mẽ.

Mùa Vọng là thời gian của sự hiện diện và chờ đời. Ánh sáng hiện diện. Chúa Kitô là Ađam mới ở với chúng ta và ở giữa chúng ta. Chúng ta phải mở mắt ra để trông thấy ánh sáng và bước vào dòng sông ánh sáng. Nhất là chúng ta phải biết ơn sự kiện Thiên Chúa đã bước vào lịch sử như suối nguồn sự thiện. Nhưng Mùa Vọng cũng là thới gian của chờ đợi. Đêm đen của sự dữ vẫn còn dầy đặc. Vì thế cùng với dân Chúa chúng ta cầu xin ”Trời cao hãy đổ sương xuống” và tha thiết cầu xin: lậy Chúa Giêsu xin hãy đến, xin hãy đến trao ban sức mạnh cho ánh sáng và sự thiện; xin hãy đến ở những nơi có sự thống trị của dối trá, không biết đến Thiên Chúa, của bạo lực và bất công. Lậy Chúa Giêsu, xin hãy đến ban sức mạnh cho sự thiện trong thế giới này và giúp chúng con trở thành những người trao ban ánh sáng, tạo dựng hòa bình và làm chứng cho sự thật.

Sau khi chúc mọi người Mùa Vọng sốt mến Đức Thánh Cha đã cất kinh lậy Cha và ban phép lành tòa thánh cho mọi người.
Linh Tiến Khải
source
Tags: | Edit Tags

No comments:

Post a Comment