Showing posts with label Trung Quoc. Show all posts
Showing posts with label Trung Quoc. Show all posts

Thursday, 8 May 2014

TQ đưa giàn khoan vào gần đảo Lý Sơn


TQ đưa giàn khoan vào gần đảo Lý Sơn

Cập nhật: 03:22 GMT - thứ hai, 5 tháng 5, 2014
Giàn khoan 981 là giàn khoan siêu sâu hàng đầu của Trung Quốc
Việt Nam vừa lên tiếng phản đối Trung Quốc đưa giàn khoan vào tác nghiệp trong vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của Việt Nam.
Đáp lại, Trung Quốc tăng phạm vi cấm tiếp cận giàn khoan 981 thêm 2 hải lý nữa.

Đây là vị trí nằm sâu trong EEZ của Việt Nam, cách đảo Lý Sơn chừng 119 hải lý (221km), thuộc lô 143 trên bản đồ dầu khí của Việt Nam.Báo trong nước dẫn thông báo trên website của Cục Hải sự Trung Quốc nói trong thời gian hơn ba tháng từ ngày 2/5 đến ngày 15/8, giàn khoan Hải Dương 981 của Tổng công ty Dầu khí hải dương Trung Quốc (CNOOC) sẽ hoạt động tại tọa độ 15 độ 29' N/111 độ 12’E.
Vị trí mà Trung Quốc đặt giàn khoan cũng cách bãi ngầm, hay còn gọi là đảo Tri Tôn (tên tiếng Trung là Trung Kiến) thuộc quần đảo Hoàng Sa, mà Trung Quốc hiện đang kiểm soát tuy Việt Nam cũng tuyên bố chủ quyền, 18 hải lý.
Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Lê Hải Bình nói tối hôm Chủ nhật 4/5: “Việt Nam có đầy đủ bằng chứng lịch sử và cơ sở pháp lý khẳng định chủ quyền của mình đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, cũng như quyền chủ quyền và quyền tài phán đối với vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của mình được xác định phù hợp với Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển 1982".
Ông Bình nói: "Mọi hoạt động của nước ngoài trên các vùng biển của Việt Nam khi chưa được phép của Việt Nam đều là bất hợp pháp và vô giá trị, Việt Nam kiên quyết phản đối”.
Cùng ngày 4/5, Tập đoàn Dầu khí Việt Nam đã gửi thư tới chủ tịch và tổng giám đốc của CNOOC phản đối hành động của Trung Quốc và yêu cầu CNOOC "dừng ngay lập tức các hoạt động bất hợp pháp và rút giàn khoan Hải Dương 981 ra khỏi vùng biển của Việt Nam".

Khẳng định đường chín đoạn

Cảnh báo của Cục Hải sự Trung Quốc còn cấm các loại phương tiện "không được xâm nhập" vào khu vực giàn khoan nói trên hoạt động trong phạm vi bán kính 1 hải lý.
Sau khi Việt Nam lên tiếng phản đối, nhà chức trách Trung Quốc tăng phạm vi bán kính này lên thành 3 hải lý.
Hành động của Trung Quốc, theo Tiến sỹ Ian Storey từ Viện Nghiên cứu Đông Nam Á ở Singapore, "là chỉ dấu rằng Trung Quốc đang khẳng định quyền thăm dò và khai thác tài nguyên trong đường chín đoạn của mình cho dù nguồn tài nguyên đó có nằm trong EEZ của quốc gia khác hay không".
"Nếu như Tòa Trọng tài Quốc tế phán quyết rằng đường chín đoạn của Trung Quốc không hợp pháp theo Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển (UNCLOS), Việt Nam sẽ có cơ sở vững chắc hơn để phản đối những hoạt động như thế này của Trung Quốc."
Tiến sỹ Ian Storey
Vị trí giàn khoan 981 nằm bên trong đường yêu sách chủ quyền còn được gọi là đường 'lưỡi bò'.
Ông Storey cảnh báo rằng sự kiện này có thể dẫn tớ́i một đợt bùng phát căng thẳng mới về chủ quyền Biển Đông giữa Việt Nam và Trung Quốc, mà trong năm 2013 dường như đã lắng xuống đáng kể.
Ông cũng cho rằng Việt Nam sẽ có cơ hội phản đối mạnh mẽ hơn nếu như Philippines thắng trong vụ kiện Trung Quốc tại Tòa Trọng tài Quốc tế.
"Nếu như Tòa Trọng tài Quốc tế phán quyết rằng đường chín đoạn của Trung Quốc không hợp pháp theo Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển (UNCLOS), Việt Nam sẽ có cơ sở vững chắc hơn để phản đối những hoạt động như thế này của Trung Quốc."
Giàn khoan 981 là giàn khoan dạng nửa chìm, có thể hoạt động ở độ sâu tối đa 3.000m, độ sâu giếng khoan tối đa 12.000m.
Giàn khoan này dài 114m, rộng 90m, gồm năm tầng cao 136m và có trọng tải tịnh hơn 30.000 tấn.
Đây là giàn khoan siêu sâu đầu tiên do Trung Quốc tự sản xuất.
Vị trí mà Trung Quốc đưa giàn khoan 981 vào hoạt động

Nguy cơ căng thẳng mới?

Giàn khoan 981 đã được đưa xuống Biển Đông từ năm 2011, gây quan ngại cho các nước trong khu vực.
Tốn gần 1 tỷ đôla để xây dựng, giàn khoan này có thể được sử dụng để phục vụ nhiều mục đích như kho học, dầu khí và quân sự.
Lúc đó, các chuyên gia Việt Nam đã cảnh báo về ý đồ dần dần chiếm hữu Biển Đông thông qua hoạt động dầu khí của Trung Quốc, nhất là khi vị trí đặt giàn khoan nằm trong vùng EEZ của các nước xung quanh.
Họ gọi đây là "thách thức chủ quyền" mà Trung Quốc "ngang ngược" áp đặt.
Trong một bài viết năm 2011, nhóm Nghiên cứu Biển Đông cho rằng việc Trung Quốc mang giàn khoan xuống Biển Đông là cách thức "thực hành chiếm cứ biển và từ đó khẳng định sự chiếm hữu thật sự Biển Đông qua hình lưỡi bò".
Họ cho rằng giàn khoan 981 còn đặt ra một tiền lệ mới "ai đến trước, được hưởng trước" đối với các tài nguyên không tái tạo tại Biển Đông và từ đó Trung Quốc sẽ dần dần ép buộc các quốc gia Biển Đông phải tuân theo chiến lược "gác tranh chấp, cùng khai thác" theo kiểu Trung Quốc.
Thực tế, Trung Quốc đã tiến hành khảo sát địa chấn tại khu vực đảo Tri Tôn, quần đảo Hoàng Sa và tại các lô dầu khí 141, 142 và 143 trên thềm lục địa Việt Nam từ tháng 5/2010.
Việt Nam cũng nhiều lần lên tiếng phản đối, nhưng các hoạt động dầu khí của Trung Quốc vẫn tiếp tục diễn ra.
Năm 2011 là năm có nhiều căng thẳng giữa Việt Nam và Trung Quốc trong lĩnh vực thăm dò khai thác dầu khí. Liệu với sự kiện giàn khoan 981, hai nước có lâm vào một đợt căng thẳng mới?
source
BBC Vietnamese

Monday, 14 April 2014

Biển Đông tiếp tục nổi sóng


Biển Đông tiếp tục nổi sóng


Tin RFI


Hai hôm sau khi Philippines chính thức nộp hồ sơ kiện Trung Quốc ra trước tòa án Liên Hiệp Quốc về các đòi hỏi chủ quyền quá đáng của Bắc Kinh tại Biển Đông, ngày 01/04/2014, báo chí Trung Quốc cực lực tố cáo hành vi « khiêu khích » của Manila. Đại sứ Philippines tại Trung Quốc đã bị triệu mời lên Bộ Ngoại giao để nhận lời phản đối.
Trong một bài xã luận gay gắt, Nhân dân Nhật báo, cơ quan ngôn luận chính thức của đảng Cộng sản Trung Quốc đã lên án động thái của Philippines, xem đấy là một hành động « vi phạm luật pháp quốc tế và sự thật lịch sử, đồng thời trái với đạo đức và các quy tắc cơ bản của quan hệ quốc tế ».
Bài báo cho là Manila đã « khiêu khích Trung Quốc » bằng cách đưa hồ sơ ra trước « cái gọi là trọng tài quốc tế, một động thái vừa phi pháp, vừa phi lý » và là « một hành động không đáng tincậy ».
Theo hãng tin Pháp AFP, bài xã luận được hãng thông tấn chính thức của Trung Quốc là Tân Hoa Xã đăng lại bằng tiếng Anh, cho thấy là chính quyền Bắc Kinh muốn tuyên truyền rộng rãi cho lập luận đả kích trên đây.
Ngày 30/03/2014, đúng trong thời hạn được quy định, Philippines đã chuyển đến Tòa án Liên Hiệp Quốc về Luật Biển tập hồ sơ dày gần 4.000 trang, bao gồm các bằng chứng cho thấy là các đòi hỏi chủ quyền của Trung Quốc trên hầu như toàn bộ Biển Đông đều bất hợp pháp theo Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển UNCLOS, và vi phạm quyền chủ quyền của Philippines trên thềm lục địa của mình.
Cả Trung Quốc lẫn Philippines đều đã ký kết UNCLOS, nhưng Bắc Kinh lập luận rằng Công ước Liên Hiệp Quốc không có giá trị trong tranh chấp Biển Đông, và chủ quyền của Trung Quốc bắt nguồn từ lịch sử.
Bài xã luận của Nhân dân Nhật báo ngày 01/04/2014 tố cáo Philippines là « tìm cách tranh thủ cảm tình quốc tế bằng cách đội lốt một quốc gia nhỏ và yếu ». Thực tế là Manila cố gắng « hợp thức hóa việc xâm lược các hòn đảo của Trung Quốc thông qua cơ chế trọng tài » Liên Hiệp Quốc.
Ngày 31/01/2014, đại sứ Philippines tại Bắc Kinh đã được triệu mời lên Bộ Ngoại giao để nhận lời phản đối mạnh mẽ của Trung Quốc. Trên trang web Bộ Ngoại giao Trung Quốc cho biết là Thứ trưởng Ngoại giao Lưu Chấn Dân (Liu Zhenmin) đã khẳng định lại với đại diện Philippines rằng Trung Quốc không công nhận thẩm quyền trọng tài quốc tế và cũng không tham gia vụ kiện.
Về phần mình, Tổng thống Philippines Benigno Aquino khẳng định quyết tâm thúc đẩy vụ kiện. Phát biểu với giới báo chí, ông xác định rằng vụ kiện không nhằm thách thức hay khiêu khích Trung Quốc, mà là để Bắc Kinh nhận thức được rằng Manila cũng có quyền bảo vệ quyền lợi của chính mình.

Mỹ tố cáo Trung Quốc khiêu khích Philippines

Philippines tiếp viện cho lính trên Bãi Cỏ Mây - Second Thomas Shoal. Ảnh ngày 31/03/2014.
Philippines tiếp viện cho lính trên Bãi Cỏ Mây – Second Thomas Shoal. Ảnh ngày 31/03/2014.
Reuters
Sau vụ tàu tuần duyên Trung Quốc lại tìm cách ngăn chặn tàu tiếp tế Philippines tại khu vực bãi Second Thomas Shoal, Hoa Kỳ ngày 31/03/2014 phê phán một hành động « khiêu khích ». Đối với Washington, Manila hoàn toàn có quyền tiếp tế cho đơn vị quân đội Philippines đồn trú trong khu vực này.
Phát biểu với các phóng viên báo chí, phó phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Mỹ Marie Harf cho rằng mưu toan ngăn chặn tàu tiếp tế Philippines đến bãi Second Thomas Shoal, ngày 29/03/2014, là « một hành động khiêu khích và gây bất ổn định ».
Second Thomas Shoal (Philippines gọi là Ayungin, Việt Nam gọi là Bãi Cỏ Mây, Trung Quốc gọi là Nhân Ái) là một bãi ngầm thuộc vùng quần đảo Trường Sa, đang là đối tượng tranh chấp giữa Philippines, Trung Quốc, Việt Nam và Đài Loan.
Philippines đã giành quyền kiểm soát thực tế bãi này từ năm 1999, nhưng trong thời gian gần đây, Trung Quốc luôn cho tàu tuần tra trong khu vực nhằm chặn đường tiếp tế cho đơn vị thủy quân lục chiến Philippines đóng trên một chiếc tàu mắc cạn trên bãi.
Theo bà Harf, Philippines được quyền tiếp tế cho binh lính đồn trú trên rạn san hô này, vì lẽ sự hiện diện đó đã có từ trước năm 2002, năm Trung Quốc và ASEAN ký kết bản Tuyên bố về Ứng xử của các bên tại Biển Đông.
Phát ngôn viên ngoại giao Mỹ khẳng định : « Là một đồng minh kết ước với Cộng hoà Philippines, Hoa Kỳ kêu gọi Trung Quốc tránh những hành vi khiêu khích mới, bằng cách để yên cho Philippines tiếp tục duy trì sự hiện diện ở bãi Second Thomas Shoal ».
Sự cố bị Washington gọi là hành vi khiêu khích xảy ra hôm 29/303/2014 khi 2 tàu tuần duyên Trung Quốc đuổi theo một chiếc tàu dân sự Philippines, chở hàng tiếp tế đến cho đơn vị thủy quân lục chiến Philippines đồn trú trên chiếc tàu cũ trên bãi Second Thomas Shoal.
Tàu Philippines rốt cuộc đã thoát khỏi sự phong tỏa của Trung Quốc để đến được Bãi Cỏ Mây và chuyển hàng tiếp tế cho đơn vị quân đội đồn trú tại đấy. Đây là lần thứ hai mà lực lượng tuần duyên Trung Quốc tìm cách ngăn không cho tàu tiếp tế Philippines đến bãi Second Thomas Shoal. Lần trước là vào ngày 09/03/2014, khi hai chiếc tàu dân sự Philippines bị tàu Trung Quốc đe dọa, bị buộc phải quay về.
SOURCE
TREDEPONLINE

Sunday, 6 April 2014

Nhìn Crimea, châu Á phải lo mối nguy Trung Quốc?



Nhìn Crimea, châu Á phải lo mối nguy Trung Quốc?


Nhìn Crimea, châu Á phải lo mối nguy Trung Quốc?

Việt-Long, viết theo Jonathan Eyal, Singapore’s The Straits Times
2014-03-31
us-navy
Hải quân Hoa Kỳ chiếm vai trò chính yếu trong chiến lược chuyển trục sang châu Á
Courtesy of veteranstoday.com
Các nhà ngoại giao Trung Quốc có đủ mọi lý do để hài lòng về phương cách họ ứng xử với cuộc khủng hoảngUkraine.
Một mặt, Trung Quốc bày tỏ sự ủng hộ đối với sự toàn vẹn lãnh thổ của Ukraine, như ngụ ý thống trách Liên Bang Nga trong việc chiếm giữ Crimea. Nhưng cùng lúc, Bắc Kinh lại vắng mặt trong các cuộc biểu quyết chống Nga tại Liên Hiệp Quốc, để ai cũng biết là Trung Quốc không ủng hộ những việc trừng phạt, cấm vận Nga về kinh tế.
Chính sách nước đôi này, để cả hai phía phương Tây và Nga không ai bắt bẻ được, dựa trên nhận thức ước đoàn là Trung Quốc sẽ thủ lợi, cho dù cuộc khủng hoảng được giải quyết cách nào chăng nữa.
Nhận thức ấy sai từ căn bản. Màn kịch Ukraine là sự bất hạnh cho toàn thể châu Á. Trung Quốc có thể sớm nhìn ra rằng thay vì đem lại lợi ích gián tiếp, cuộc khủng hoảng ở xứ Ukraine xa xôi sẽ khiến Bắc Kinh phải đương đầu với những thách đố mới về an ninh, với chi phí tốn kém.
Thật dễ thấy vì sao Trung Quốc có thể thủ lợi qua những sự kiện diễn tiến ở Ukraine, ít nhất là trong ngắn hạn. Nước Nga bị cô lập và bị phương Tây trừng phạt, sẽ rất sẵn lòng bán cho Trung Quốc dầu khí và vũ khí với những điều kiện ưu đãi. Đó là điều đã được cố vấn thân cận của Tổng thống Putin, ông trùm dầu khí Nga Igor Sechin, nguyên phó Thủ tướng, chủ tịch công ty quốc doanh dầu khí Rosneft, nhìn nhận với giới truyền thông hồi tuần trước.

Trung Quốc sẽ sao chép kiểu mẫu Nga?

Nước Mỹ phải chú tâm đối phó với một cuộc khủng hoảng ở châu Âu sẽ không thể có đủ thời gian chăm lo chính sách chuyển trục chiến lược sang châu Á. Trong khi đó thì, tuy không ai nói đến việc Bắc Kinh sẽ theo gương nước Nga trong hành động lấn chiếm lãnh thổ, hành động của Moscow không gặp phản ứng mạnh mẽ của Hoa Kỳ hẳn phải kích thích các nhà chiến lược Trung Quốc rộn lên mối hy vọng xứ sở của họ một ngày nào đó sẽ giải quyết vấn đề tranh chấp lãnh thổ theo cùng đường lối với Liên Bang Nga.
Nếu Nga có thể chiếm giữ lãnh thổ Crimea rộng lớn với 2 triệu dân chỉ trong mấy ngày không cần một phát súng chiến tranh nào, thì tại sao Trung Quốc không thể làm như vậy với mấy dải đất đá không người cư ngụ?
pipeline-epa
Hệ thống đường ống dẫn dầu khí ở biên giới Nga-Kazakhstan do Trung Quốc đầu tư – Courtesy of EPA

Tất cả nghe đều rất thật, nhưng chỉ là một phần câu chuyện. Càng nhìn sâu vào cuộc phân rẽ của Ukraine, người ta càng lo sợ rằng mọi quốc gia châu Á, kể cả Trung Quốc, sẽ chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng ở châu Âu.
Việc dùng võ lực để thay đổi biên giới ở châu Âu có thể không làm Trung Quốc cảnh giác đúng lúc, nhưng những biện pháp được Nga sử dụng để chiếm lấy Crimea cùng với những điều biện minh của họ cho hành động này phải gợi nên mối quan ngại sâu xa cho mọi nước, ngay cả tại Bắc Kinh.
Người Nga tự cho quyền sử dụng võ lực với bất kỳ lân bang nào có người thuộc sắc tộc Nga cư ngụ mà có thể chịu nguy hiểm, và phân phát hộ chiếu Nga cho tất cả cộng đồng ấy để củng cố quyền tự nhận như vậy. Moscow cũng tổ chức một cuộc trưng cầu dân ý chớp nhoáng để biện minh cho sự sáp nhập một tỉnh thành của Ukraine vào nước Nga, nâng cao điều mà họ thích gọi là “tự quyết” thành một nguyên tắc biện minh cho sự đổi thay lãnh thổ.
Cả hai ý tưởng ấy, tự quyền dùng võ lực và tự quyết để tách ra, đều độc hại cho nền an ninh châu Á. Khuôn mẫu “bảo vệ cho đồng chủng” của Nga có thể hấp dẫn một số người Hoa có tinh thần “quốc gia” sẳn sàng biện luận rằng Bắc Kinh đã không hành động đủ để bảo vệ người Hoa ở các nước khác. Tuy nhiên khi Bắc Kinh càng bị lôi cuốn để sao chép khuôn mẫu Nga, càng thêm nhiều người sắc tộc Trung Hoa ở khắp châu Á bị các nước nơi họ cư trú đối xử với nhiều nghi ngại; mối quan hệ nhân quả giữa các cộng đồng sắc tộc thiểu số  với xứ sở gọi là “tổ quốc” của họ đã phải mang trách nhiệm cho hai cuộc chiến tranh thế giới phát khởi từ châu Âu.
Thêm vào đó, tổ chức trưng cầu dân ý để quyết định biên giới là loại nguyên tắc mà Trung Quốc không muốn có. Có thể thấy trước kết quả chắc chắn nếu trưng cầu dân ý được tổ chức ở Tân Cương hay Tây Tạng. Và trong khi Bắc Kinh có đủ điều kiện cần thiết để bảo đảm những cuộc bỏ phiếu như vậy không bao giờ xảy ra, liệu họ có thể làm gì nếu kiểu cách “trưng cầu” như thế được Đài Loan và Hồng Kông  chọn lựa?

Thách đố chiến lược cho Bắc Kinh

Không phải những lợi ích chiến lược mà Trung Quốc cho là có thể chiếm được từ vụ khủng hoảng Ukraine đều là thật.
Thừ nhìn qua viễn ảnh Nga chuyển nhượng dầu khí nhiều hơn sang phía Trung Quốc làm ví dụ. Quả là khi châu Âu tìm cách chuyển hướng nguồn cung cấp ra khỏi nước Nga thù nghịch, thì người Nga sẽ buộc phải bán các sản phẩm năng lượng cho Trung Quốc, là thị trường lớn thứ nhì sau châu Âu. Và kế đó, cũng đúng là người Trung Quốc sẽ là phía định giá trong một thị trường của người mua. Đó là hai điều lợi lập tức cho xứ khát dầu này.
Song song với những điều lợi đó, chuyển mối cung cấp khỏi châu Âu sang châu Á là cả một trách vụ khổng lồ. Nga-Trung Quốc sẽ phải kiến tạo mạng lưới đường ống y như họ đã có với châu Âu. Phí tổn sẽ không dưới 50 tỉ đô la, thời gian hoàn tất đòi hỏi nhiều năm, nếu không phải là hằng chục năm.
slave-population-in-kazakhstan
Tỉ lệ sắc dân Slavic tại miền Bắc Kazakhstan- Màu đỏ đậm là trên 50%, giảm dần đến màu trắng là 0% – Courtesy of Wikipedia

Cùng lúc, Trung Quốc có thể bị thôi thúc phải bảo vệ nguồn tài nguyên năng lượng họ đã bảo đảm cho mình ở Trung Á. Đến nay Bắc Kinh đang thắng thế trong cuộc chiến giành ảnh hưởng ở Trung Á với Nga, người chủ thực dân cũ của khu vực, bằng một đường lối kiên nhẫn, ôn hòa, với những cơ hội thương mại cho Trung Á mà nước Nga không thể nào sánh kịp.
Thế nhưng chiến thắng ở Ukraine có thể khuyến khích người Nga tiến tới xác định thêm nữa ảnh hưởng ở Trung Á, nơi có những người thuộc sắc tộc Nga sống quây quần trong những cộng đồng lớn rải rác ở nhiều nơi.
Lãnh thổ phía bắc Kazakhstan, xứ sở lớn nhất và giàu nhất Trung Á, là vùng hoàn toàn do người sắc tộc Nga chi phối, rất dễ bị sáp nhập vào Liên Bang Nga theo đúng cách thức như với Crimea. Người Nga có thể sử dụng những căn cứ quân sự họ đã có trên khắp khu vực này vào mục đích đó, hệt như sử dụng căn cứ hải quân ở Crimea. Nói vắn tắt, cuộc khủng hoảng Ukraine khiến biên giới giữa Trung Quốc với Trung Á bị mất an ninh hơn thay vì an ninh được bảo đảm hơn.

Tác động vào chính sách chuyển trục?

Thực ra sai lầm quan trọng nhất mà Trung Quốc hay bất cứ quốc gia nào khác ở châu Á có thể phạm phải là dự toán rằng cuộc khủng hoảng Ukraine khiến Hoa Kỳ phải giảm đi sự hiện diện ở châu Á, hay khiến tiếng tăm trên toàn cầu của người Mỹ bị suy kém.
Dù không để xảy ra chiến tranh với Nga như mọi người không ai trông đợi, Hoa Kỳ vãn có thể kiềm chế sức mạnh của Liên Bang Nga ở châu Âu mà không cần tuôn vào đó những tài nguyên quân sự mới. Người Mỹ chỉ cần khuyến khích đồng minh châu Âu trong khối NATO thay đổi một vài sách lược. Chuyển những căn cứ và binh đội của NATO đang ở Tây Âu sang lãnh thổ Trung Âu và Đông Âu sẽ là một kế hoạch nhanh chóng và không mấy tốn kém, mà vẫn đủ để ghìm chân lực lượng quân sự Nga trong nhiều năm sắp tới.
Rốt cuộc vụ Ukraine-Crimea chẳng tác động gì đến chiến lược tái cân bằng lực lượng Hoa Kỳ sang châu Á; người Mỹ vẫn có thể tiếp tục thực hiện nó. Trên thực tế, chiến lược này còn có thể được củng cố vững mạnh hơn. Thế đối đầu với Nga hiện nay có thể khiến Quốc hội Hoa Kỳ bác bỏ những khoản cắt giảm ngân sách quốc phòng mà Tổng thống Obama đã phác họa.

Châu Á nhích lại gần Mỹ hơn

Một số nhà phân tích Trung Quốc kín đáo cho rằng quyết định của Hoa Kỳ không phản ứng quân sự với cuộc can thiệp quân sự của Nga vào Ukraine đã làm giảm uy tín của Washington trong lời cam kết bảo đảm an ninh cho các nước khác.
Thực ra Ukraine không phải thành viên của NATO hay EU. Sự cam kết của Hoa Kỳ bảo đảm an ninh cho xứ ấy có tính cách yểm trợ về tinh thần nhiều hơn tính pháp lý.
Siêu cường Hoa Kỳ với sức mạnh hiện nay đã không cam kết đầy đủ cho nền an ninh của Ukraine bằng cách sử dụng sức mạnh quân sự vô song để bảo vệ lãnh thổ toàn vẹn cho xứ ấy. Tuy nhiên, bài học mà các nước châu Á có thể rút ra từ sự kiện này là không phải sự bảo đảm an ninh của Mỹ nay trở thành vô giá trị.  Để đạt mục đích chắc chắn sự bảo đảm đó có hiệu lực, các quốc gia châu Á đối tác của người Mỹ phải làm sao củng cố mạnh mẽ lời cam kết của Washington đối với nền an  ninh của họ. Đó chính là điều mà Nhật Bản và Nam Hàn, trong số các nước châu Á, đang làm.
Người ta chỉ nên coi sự kiện Ukraine như một điều không may, và phản ứng có thể là siết chặt mối quan hệ đồng minh với Hoa Kỳ song song với sự tìm tòi cho ra những kế hoạch an ninh chung cho toàn khu vực. Đó là kiến trúc an ninh duy nhất có thể ngăn ngừa Trung Quốc lặp lại kịch bản Ukraine ở châu Á.
Điều này đã trở nên sáng sủa rõ ràng thêm nhiều, khi Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc tuần trước đã chấp thuận nghị quyết ủng hộ sự toàn vẹn lãnh thổ của Ukraine. Chỉ một nước duy nhất bỏ phiếu ủng hộ Nga: Bắc Hàn. Bạn bè đồng minh như Bắc Hàn quá đủ để Liên Bang Nga chẳng cần có một kẻ thù nào khác! World Map

Không có tin liên quan.
SOURCE
TREDEPONLINE

Monday, 14 January 2013

So sánh phi cơ Trung-Nhật ở Senkaku/Điếu Ngư JANE | JANUARY 14, 2013 8:34 AM





So sánh phi cơ Trung-Nhật ở Senkaku/Điếu Ngư


So sánh phi cơ Trung-Nhật ở Senkaku/Điếu Ngư

Trong số các chiến đấu cơ được điều đến khu vực quần đảo tranh chấp, máy bay F-15 của Nhật được đánh giá nhanh và mạnh hơn, nhưng máy bay J-10 của Trung Quốc lại được trang bị vũ khí hiện đại hơn.

Truyền thông Nhật đưa tin, máy bay chiến đấu Trung Quốc J-10 nhiều lần bay vào vùng trời gần quần đảo Snekaku/Điếu Ngư mà Nhật Bản và Trung Quốc cùng tuyên bố chủ quyền, khiến Nhật Bản phải điều các chiến đấu cơ F-15 đến để bảo vệ quần đảo mà Nhật kiểm soát trên thực tế. Đồ họa: Fujitv
Một số diễn đàn về quân sự đưa máy bay Thành Đô J-10 (Chengdu J-10, ảnh trên) của Trung Quốc và Đại bàng F-15 (F-15 Eagle) của Nhật Bản ra so sánh về sức chiến đấu. Ảnh: Linskysplace
F-15J/DJ Mitsubishi Eagle là máy bay tiêm kích hai động cơ đánh chặn trong mọi thời tiết. F-15 được sản xuất bởi Tập đoàn Công nghiệp nặng Mitsubishi theo mẫu chiếc F-15 của Mỹ và phục vụ trong Lực lượng Phòng vệ Nhật Bản. Ngoài mục đích để chiến đấu, F-15J còn đảm nhiệm vai trò đào tạo. F-15J Kai là một phiên bản hiện đại hóa của F-15J. Ảnh: Wikipedia
Chiến đấu cơ F-15 Eagle của Nhật mang được một phi công, chiều dài 19,43 m, sải cánh 13,05 m. Máy bay có tải trọng là 20,2 tấn, tốc độ tối đa 2.660 km/h ở tầm cao và 1.450 km/h ở tầm thấp. Máy bay được trang bị một khẩu pháo M61 Vulcan cỡ nòng 20 mm. Ảnh: Wikipedia
Các máy bay Chengdu J-10 là chiến đấu cơ đa chức năng được thiết kế và sản xuất bởi Tổng công ty Công nghiệp Máy bay Thành Đô của quân đội Trung Quốc. J-10 được biết đến ở phương Tây với biệt danh “con rồng mạnh mẽ”. J-10 là một máy bay chiến đấu đa chức năng có khả năng hoạt động trong mọi thời tiết. Ảnh:Sammyboy
Máy bay chiến đấu Thành Đô J-10 cũng chở một phi công, chiều dài 15,49 m, sải cánh 9,75 m, trọng lượng 13.000 kg. J-10 được trang bị pháo hai nòng cỡ 23 mm. Ảnh: Pardaphash
Tổng thể, F-15 được đánh giá kinh tế hơn, tốc độ nhanh hơn, kích cỡ to hơn, có sức chiến đấu mạnh hơn, nhưng J-10 được trang bị vũ khí tốt hơn và khả năng chiến thắng trong đối đầu trực tiếp tương ứng là 54-46%. Ảnh: Aviatia
Về phía Trung Quốc, nước này tuyên bố điều động hai chiến đấu cơ J-10 hôm 10/1, sau khi một máy bay Y-8 của nước này bị hai chiếc chiến đấu cơ F-15 của Nhật theo sát. Y-8 là máy bay vận tải tầm trung kích thước trung bình, dựa trên Antonov An-12, có chức năng vận chuyển hàng hóa quân sự và dân sự, với nhiều phiên bản sản xuất và xuất khẩu. Ảnh: Fighterplanes.yuku
Một máy bay vận tải khác là Y-12, trực thuộc Cục Hải dương Quốc gia Trung Quốc, cũng được cho là từng xuất hiện trên vùng trời Senkaku/Điếu Ngư trong những ngày qua. ẢNh: Fujitv
Truyền thông Nhật Bản ngày 11/1 cũng đưa tin trong số hơn 10 chiếc máy bay Trung Quốc đến gần đảo Senkaku/Điếu Ngư trên biển Hoa Đông, có cả “Phi Báo” Tây An JH-7. Đây là máy bay ném bom chiến đấu hàng đầu của Trung Quốc. Ảnh:Wikipedia
Cuộc “chiến đấu” và tranh cãi trên các kênh ngoại giao lẫn trên thực địa giữa Trung Quốc và Nhật Bản dự kiến sẽ còn chưa yên ắng với một Trung Quốc ngày càng phát triển về quân sự và khí tài và một chính quyền cứng rắn của tân thủ tướng Nhật Shinzo Abe. Ảnh: AFP
__._,_.___
source
Tre Dep Online

Thursday, 5 April 2012

Báo TQ phản ứng vụ Palau bắn ngư dân


Báo TQ phản ứng vụ Palau bắn ngư dân

Cập nhật: 13:14 GMT - thứ năm, 5 tháng 4, 2012

Palau có vùng kinh tế đặc quyền rộng 630 nghìn km vuông

Hoàn cầu Thời báo phản ứng vụ ngư dân Trung Quốc bị bắn ở Palau trong bối cảnh báo này gọi là ‘Thái Bình Dương ngày càng ít yên bình’.

Tờ báo theo khuynh hướng dân tộc chủ nghĩa của Trung Quốc đã lên tiếng hôm 5/4/2012 sau vụ một ngư phủ Trung Quốc bị trúng đạn chết và nhiều người khác bị cầm giữ bởi đảo quốc Palau hôm 31/3 hoặc 1/4 tùy theo múi giờ Trung Quốc.

Chiếc tàu chính cho nhóm ngư dân này đã bị cháy, còn thuyền nhỏ chở họ đi bắt hào to ở vùng bờ biển bị nạn, theo các hãng thông tấn.

Báo Pacific Daily News dẫn lời phát ngôn viên cho Phủ Tổng thống Palau, ông Fermin Meriang, thuật lại rằng khi thuyền cá Trung Quốc lao tới, cảnh sát biển Palau buộc phải nổ súng cảnh báo vào máy tàu chứ không nhằm vào ai cả.

Nguồn tin này trích quan chức Palau nói "một viên đạn chắc đã văng ra và găm trúng vào đùi một thuyền viên Trung Quốc" khiến ông này chết vì mất máu trước khi được đưa vào bệnh viện.

Con số người bị bắt cũng chưa rõ chỉ là năm người hay 25.

Báo Hoàn cầu gọi đây là vụ ‘xung đột nghề cá’ giữa Trung Quốc và Palau.

Hậu quả là vụ việc “gây sốc” cho người dân Trung Quốc, theo bài báo.

Bài báo cũng coi Palau, một đảo quốc chỉ có 200 nghìn dân, nằm gần Guam và cách Philippines 500 hải lý, là thuộc nhóm “các nước xung quanh” Trung Quốc trên biển.

Tờ báo thừa nhận “trong những năm gần đây, tranh chấp của Trung Quốc trên biển với các nước xung quanh ngày càng trở nên thường xuyên,”

Bài báo trích lời các nhà nghiên cứu tại Đại học Chiết Giang nói rằng “biển Thái Bình Dương như đang ngày càng ít bình yên”.

Tuy nhiên báo Hoàn cầu không đi vào chi tiết về các vụ va chạm đó mà chỉ đề nghị một biện pháp tìm thỏa thuận song phương để “bảo hộ dân sự” cho các công dân nước ngoài khi có xung đột trên biển.

Tờ báo này viết: “Đề nghị của chúng tôi là Trung Quốc cần tìm cách tham gia các thỏa thuận bảo vệ dân sự song phương” với một số chính phủ nước ngoài,”

Tàu đánh cá của Trung Quốc hoạt động ngày càng xa vùng biển truyền thống

“Qua đó, sẽ có thể thúc đẩy cộng đồng quốc tế ký biên bản đa phương để bảo vệ công dân ở hải ngoại.”

Hoa Kỳ phòng vệ giúp

Trong lúc cơ quan ngoại giao Trung Quốc tiếp tục điều tra vụ bắn chết ngư dân nước họ đánh bắt tại vùng đảo Palau, vụ việc được quốc tế chú ý đến còn vì chiếc du thuyền siêu hạng của tỷ phú Mỹ, Paul Allen cũng tham gia cứu họ các thành viên thủy thủ đoàn Trung Quốc.

Hôm thứ Tư, Bộ Ngoại giao Trung Quốc cho hay trên trang mạng của họ rằng Đại sứ quán nước này tại Micronesia, đảo quốc cạnh Palau, đang điều tra vụ ngư dân mà họ vẫn chưa xác định được danh tính.

Cơ quan ngoại giao Trung Quốc cũng nói nếu công dân họ “vi phạm luật quốc tế” thì lãnh sự sẽ cố gắng hết sức để bảo vệ họ.

Palau chỉ có quan hệ ngoại giao với Đài Loan chứ không duy trì quan hệ với Trung Quốc.

Đảo Palau không có lực lượng phòng vệ riêng mà để cho Hoa Kỳ lo chuyện quân sự và phòng vệ lãnh hải.

Tổng thống Palau Johnson Toribiong đã đưa ra tuyên bố về vụ việc nhưng không nhắc gì đến vụ bắn ngư dân Trung Quốc và chuyện bắt giữ những người khác.

Tuy nhiên, ông cho hay một phi công có giấy phép bay của Hoa Kỳ và hai cảnh sát viên đã mất tích 48 giờ kể từ khi họ đi tìm chiếc tàu chính bị cháy.

Tuần tra biển của Hoa Kỳ và chiếc du thuyền siêu hạng mà người đồng sáng lập tập đoàn Microsoft, ông Paul Allen, làm chủ cũng tham gia tìm kiếm dù ông không có mặt.

source

BBC Vietnamese

Saturday, 10 March 2012

Bắc Kinh ngăn chận người Tây Tạng tưởng niệm cuộc khởi nghĩa 10/03/1959


TRUNG QUỐC -
Bài đăng : Thứ bảy 10 Tháng Ba 2012 - Sửa đổi lần cuối Thứ bảy 10 Tháng Ba 2012

Bắc Kinh ngăn chận người Tây Tạng tưởng niệm cuộc khởi nghĩa 10/03/1959

Người Tây Tạng tại Kathmandu kỷ niệm cuộc khởi nghĩa ngày 10/03/1959.
Người Tây Tạng tại Kathmandu kỷ niệm cuộc khởi nghĩa ngày 10/03/1959.
REUTERS/Rajendra Chitrakar

Tú Anh

Từ nhiều tháng qua, chính quyền Trung Quốc phát động chiến dịch trấn áp người Tây Tạng. Mục tiêu của Bắc Kinh là không cho người Tây Tạng kỷ niệm ngày tổng khởi nghĩa 10/03/1959. Các biện pháp kềm kẹp này chỉ làm gia tăng phong trào tự thiêu phản kháng của người dân.

Từ vùng Tây Tạng tự trị đến bốn tỉnh miền Tây Trung Quốc có đông đảo dân cư Tây Tạng sinh sống thì việc tưởng niệm ngày nổi dậy chống Trung Quốc xâm lăng 10/03/1959 luôn được ghi nhận bằng những hành động phản kháng.

Theo phóng viên của AFP tại Thanh Hải thì đặc biệt năm nay biện pháp kiểm soát các tu viện đã được tăng cường hầu tránh mọi bất ổn. Một tu sĩ tại tu viện Kumbum nói với phóng viên Tây phương là tu viện đang bị giám sát chặt chẽ và không phải lúc thuận tiện để trao đổi với nhà báo về vấn đề này.

Từ những tuần qua, các biện pháp gia tăng kềm kẹp đã được thi hành, đặc biệt là kiểm duyệt thông tin và giới hạn tự do đi lại tại vùng tự trị, cũng như ở bốn tỉnh miền Tây Trung Quốc. Cán bộ tôn giáo « trụ » ngay trong chùa để theo dõi sinh hoạt và tổ chức « học tập cải tạo chính trị ». Tuy nhiên, chân dung của Đức Đạt Lai Lạt Ma vẫn được tôn thờ chứng tỏ các biện pháp cấm đoán không làm người dân Tây Tạng lo sợ.

Đối với người dân Tây Tạng thì ngày 10/03 là một ngày lịch sử bi hùng, ghi dấu tinh thần bất khuất của một dân tộc bé nhỏ của xứ Phật ôn hòa, một mình đương đầu với đoàn quân xâm lược của láng giềng Trung Quốc.

Vào năm 1951, chỉ hai năm sau ngày thống trị Trung Quốc, chế độ Mao Trạch Đông gây sức ép buộc Tây Tạng phải ký « hiệp ước 17 điểm » từ bỏ chủ quyền quốc gia.

Đây chỉ là bước đầu trong chính sách « sống chung hòa bình » giữa Tây Tạng Phật giáo và Trung Hoa Cộng sản. Kéo dài được khoảng 9 năm thì những đơn vị quân đội « giải phóng » của Mao tràn qua biên giới phá hủy chùa chiền, hạ sát tu sĩ, gây sức ép lên tinh thần dân chúng, làm hàng trăm ngàn người phải di tản về thủ đô Lhassa với tâm trạng hoài nghi « thiện chí hòa bình » của ban lãnh đạo Bắc Kinh.

Ngày 10/03/1959, hàng chục ngàn dân kể cả phụ nữ và tu sĩ đã tuần hành tại Lhassa đòi Trung Quốc phải trả tự do cho Tây Tạng.

Phong trào tranh đấu bị đàn áp trong biển máu. Trong vòng ba ngày « giải phóng quân » đã dẹp tan cuộc khởi nghĩa với gần 87.000 người thiệt mạng kể cả tu sĩ nam nữ. Tuy nhiên phong trào kháng chiến đã lan khắp Tây Tạng và những nơi có cộng đồng Tây Tạng sinh sống ở Trung nguyên.

Hậu quả của chính sách đàn áp là Đức Đạt Lai Lạt Ma lúc đó tuổi mới đôi mươi đã phải cùng toàn bộ chính phủ và 80 ngàn dân chạy sang Ấn Độ tị nạn. Từ đó, Đức Đạt Lai Lạt Ma lãnh đạo cuộc tranh đấu bất bạo động chống Trung Quốc xâm lăng, và từ cuộc tranh đấu này đã phát sinh phong trào đòi tự do cho Tây Tạng lan tỏa khắp thế giới.

Trong ngày 10/03 năm nay, tại châu Âu có 49 thành phố kết nghĩa với 49 thành phố Tây Tạng, trong đó quận 11 Paris đã chọn Lhassa.

Ngược lại, từ Bắc Kinh, chủ tịch Hồ Cẩm Đào kêu gọi phải duy trì « ổn định và hài hòa » tại Tây Tạng. Lãnh đạo Trung Quốc đã từng nổi danh với cuộc đàn áp đẫm máu vào tháng 3/1989 khi ông chỉ huy đảng Cộng sản tại Tây Tạng.

Từ một năm nay, hơn 26 thanh niên nam nữ Tây Tạng, phần đông là tu sĩ tại Tứ Xuyên đã dụng giải pháp biến thân làm đuốc để cảnh tỉnh đảng Cộng sản Trung Quốc.

source

RFI Vietnamese

Friday, 3 February 2012

Cam Bốt : Cựu trưởng trại tù Toul Sleng bị án chung thân



CAM BỐT -
Bài đăng : Thứ sáu 03 Tháng Hai 2012 - Sửa đổi lần cuối Thứ sáu 03 Tháng Hai 2012

Cam Bốt : Cựu trưởng trại tù Toul Sleng bị án chung thân

Phiên tòa phúc thẩm xét xử cựu lãnh đạo Khmer Đỏ Duch, ngày 03/02/2012, được truyền hình trực tiếp.
Phiên tòa phúc thẩm xét xử cựu lãnh đạo Khmer Đỏ Duch, ngày 03/02/2012, được truyền hình trực tiếp.
REUTERS/Samrang Pring

Phạm Phan / Tú Anh

Bản án được công bố vào sáng nay 03/02/2012 tại Phnom Penh. Duch, cựu lãnh đạo Khmer Đỏ, trưởng trại tù Toul Sleng, thủ phạm tội diệt chủng bị kết án chung thân. Trong bản án trước, Duch bị 35 năm tù. Đương sự và thân nhân của nạn nhân đều kháng án. Thủ phạm muốn được giảm nhẹ hình phạt, còn bên phía gia đình nạn nhân đòi luật pháp phải nghiêm minh hơn.


Từ Phnom Penh, thông tín viên Phạm Phan tường thuật :

Hôm nay, Tòa Tối cao chính thức bác bỏ đơn xin kháng án của bị cáo Duch, thay vào đó còn tăng án từ 35 năm tù giam thành chung thân.

Vào năm 2010, Tòa án Khmer Đỏ xử Duch 35 năm tù giam, trong đó bị cáo đã bị tạm giam hết 10 năm. Năm 2011, Duch chống án và yêu cầu được tha tội, vì cho rằng những tội ác được thi hành trong trại tra tấn S.21 là do cấp lãnh đạo chế độ Khmer Đỏ chủ trương, còn Duch chỉ là cấp thừa hành bên dưới, nếu không tuân lịnh sẽ bị trừng trị.

Tuy nhiên phía công tố viên lại không đồng ý với bản án 35 năm tù giam, vì cho rằng quá nhân từ đối với tên tội phạm chống lại nhân loại. Ý kiến phản đối này cũng được thân nhân người chết và những người sống sót trong trại S.21 đồng ý.

Duch bị kết tội đã tra tấn, giết người, tội phạm chiến tranh và tội ác chống lại nhân loại. Chỉ riêng tại trại S.21 nơi Duch làm quản ngục, đã có hơn 15.000 người dân bị sát hại, trong đó có nhiều phụ nữ và trẻ em.

Theo các nhân chứng còn sống sót, Duch khi làm quản ngục, y là một hung thần, chính tay Duch đánh đập nhiều nạn nhân một cách dã man.

Trong báo cáo của Tòa Tối cao nói rằng, Duch đã có sự hợp tác và biết hối hận khi đứng trước Tòa.Tuy nhiên trong thời gian Duch phục vụ cho chế độ diệt chủng, đương sự rất nhiệt thành với bổn phận và thi hành nhiều cuộc tra tấn tàn nhẫn, gây chấn động cho những người còn có lương tâm.

Nhiều người trẻ tuổi hôm nay gồm nam nữ sinh viên có mặt tại phiên xử đã tỏ thái độ vui mừng khi nghe phán quyết sau cùng của Tòa Tối cao. Bởi vì họ coi đó là biểu tượng chiến thắng của công lý.

Quyết định hôm nay của Tòa Tối cao đã chính thức đóng lại hồ sơ đầu tiên và kéo dài quá lâu, mở ra triển vọng tích cực khi Tòa tiến hành xét xử ba trọng phạm hàng đầu của Đảng Cộng sản Cam Bốt là Nuon Chea, Ieng Sary, và Khieu Samphang.

source

RFI Vietnamese

Tự thiêu đánh dấu một chuyển biến trong phong trào của người Tây Tạng


Thứ Sáu, 03 tháng 2 2012

Tự thiêu đánh dấu một chuyển biến trong phong trào của người Tây Tạng

Tính từ tháng 3 năm ngoái, có ít nhất 16 người Tây Tạng, phần lớn là các nhà sư và ni cô, đã tự thiêu để phản đối các chính sách của chính phủ Trung Quốc. Mặc dầu thoạt đầu phần lớn chỉ xảy ra đơn lẻ ở một khu vực người Tây Tạng thuộc tây nam Trung Quốc, những vụ tự thiêu này đã lan rộng và tăng thêm. Từ tháng 3 đến cuối tháng 9 năm ngoái, 4 người Tây Tạng đã tự thiêu để phản kháng. Từ tháng 10 cho đến cuối tháng trước, có thêm 12 người nữa cũng nối bước làm như thế. 4 vụ xảy ra chỉ riêng trong tháng 1.


Ni cô Palden Choetso tự thiêu tại một con đường ở Daofu, Tây Tạng
Hình: REUTERS
Ni cô Palden Choetso tự thiêu tại một con đường ở Daofu, Tây Tạng
Một trong số ít các hình ảnh những vụ tự thiêu đã lọt được ra thế giới bên ngoài là hình ảnh của Palden Choetso, một ni cô ở một vùng Tây Tạng tại tỉnh Tứ Xuyên miền tây nam Trung Quốc. Trong video này, vị ni cô đứng yên khi các ngọn lửa bốc cháy toàn thân bà và sau đó bà ngã xuống đất.

Ni cô Palden Choetso tự thiêu vào tháng 11 và là người Tây Tạng thứ 11 đã viện đến hình thức phản kháng cực đoan này.

Sau cái chết của bà, các ni cô đã tụ tập để ghi nhớ sự hy sinh của bà. Và giữa những tiếng khóc than tuyệt vọng của họ là những lời kêu gọi đòi độc lập cho Tây Tạng thoát khỏi Trung Quốc. Một buổi thắp nến canh thức đã được tổ chức và người Tây Tạng đã xếp hàng dài để tỏ lòng thành kính.

Ông Robbie Barnett, một chuyên gia về Tây Tạng tại trường Đại học Columbia ở New York, nói rằng trong khi con số những vụ tự thiêu tăng lên và lan ra thêm các khu vực khác thì thì người Tây Tạng ở Trung Quốc dường như đã mất hết kiên nhẫn. Ông nhận định:

“Tinh thần dân tộc tăng cao ở các khu vực Tây Tạng hơn bao giờ hết trong lịch sử. Và đó có thể là kết quả của các chính sách xấu của Trung Quốc đã trở nên khắt khe và tàn bạo hơn, nhất là trong 15 năm vừa qua.”

Làn sóng những vụ tự thiêu trong năm vừa qua bắt đầu hồi tháng 3 năm ngoái, khi nhà sư 20 tuổi Phuntsong nổi lửa tự thiêu để kỷ niệm 3 năm vụ đàn áp đẫm máu của Trung Quốc nhắm vào những cuộc biểu tình tại tu viện Kirti ở Aba.

Nhưng vụ tự thiêu của nhà sư Phuntsong không phải là vụ đầu tiên. Vụ phản kháng trước đó dưới hình thức này đã xảy ra vào tháng 2 năm 2009 khi một nhà sư cũng thuộc tu viện vừa kể tự thiêu.

Tổ chức Chiến dịch Quốc tế cho Tây Tạng có trụ sở ở Washington nói rằng nhà sư đó tên là Tapey, đã tự thiêu sau khi chính quyền địa phương cấm các nhà sư tại tu viện tổ chức một lễ cầu siêu theo truyền thông vào dịp năm mới Tây Tạng.

Trong năm vừa qua, 6 trong số 8 vụ tự thiêu đã được thực hiện bởi các nhà sư ở tu viện Kirti, nhưng dần dà các vụ này đã lan ra những nơi khác.

Ông Steve Marshall, một cố vấn kỳ cựu trong Ủy ban Hành pháp Quốc hội Hoa Kỳ về Trung Quốc, đã dành hơn 2 thập niên nghiên cứu những vụ vi phạm nhân quyền ở Tây Tạng. Ông nói:

“Điều chúng ta thấy khi các vụ tự thiêu này lan ra, là có những vụ đã xảy ra trước đó ở các quận huyện khác. Chúng ta thấy các vụ tự thiêu đã trở thành tiền lệ và đây là điều mà người Tây Tạng sẽ còn nhớ đến rất lâu.”

Trung Quốc đã thắt chặt an ninh tại các khu vực người Tây Tạng nơi xảy ra những vụ tự thiêu và gán cho những người tự thiêu là các phần tử khủng bố.

Bắc Kinh cũng đã cáo buộc nhà lãnh đạo tinh thần Tây Tạng, Đức Đạt lai Lạt ma là hậu thuẫn cho các hành động đó. Cả Đức Đạt lai Lạt ma và chính phủ lưu vong Tây Tạng đều bác bỏ lời cáo buộc này.

Người đứng đầu chính phủ lưu vong Tây Tạng, ông Lobsang Sangay nói chính quyền của ông không xúi giục bất cứ hình thức phản kháng nào ở Trung Quốc bởi vì những hậu quả của các hành động như thế. Ông cho biết:

“Nếu phản kháng tại Tây Tạng thì thường là sẽ bị bắt giữ, đánh đập, và đôi khi tra tấn nữa. Có khi thì bị mất tích, có khi thì thiệt mạng.”

Những hành động như tự thiêu, theo ông Lobsang và các nhà phân tích, cho thấy người Tây Tạng ở Trung Quốc đã tuyệt vọng đến mức nào.

Các chuyên gia phân tích nói ở Aba và các khu vực Tây Tạng khác, sự kiện có thêm các luật lệ về tôn giáo trong những năm vừa qua đã làm tăng thêm áp lực đối với các nhà sư và ni cô, quản lý tỉ mỉ đời sống của họ và hạn chế quyền tự do đi lại của họ.

Sau đây vẫn là nhận định của ông Steve Marshall thuộc Ủy ban Hành pháp Quốc hội Hoa Kỳ về Trung Quốc:

“Những quy định này đi đến mức như là buộc phải dùng loại chuông hiệu nào cho điện thoại của mình, được quyền xem các chương trình truyền hình nào, có được giữ hình ảnh của Đức Đạt lai Lạt ma hay không – những chi tiết rất nhỏ nhặt về đời sống hàng ngày của các nhà sư và ni cô. Quan trọng hơn nữa, họ kiểm soát những thứ như có được đi đến nơi nào khác để nghe thuyết pháp hay không. Và nếu đi đâu thì phải xin phép.”

Giáo sư đại học Columbia Robbie Barnett cho rằng các vụ tự thiêu cũng đánh dấu một sự cắt đứt với quá khứ, khi tình hình ở Tây Tạng chỉ gặp sự phản đối của những người sống lưu vong và Đức Đạt Lai Lạt Ma. Ông nói:

“Các vụ tự thiêu đánh dấu một biến chuyển quan trọng, theo đó những gì sẽ xảy ra trong tương lai ở Tây Tạng sẽ được xác định bởi các quyết định của người dân bên trong Tây Tạng. Và những vụ tự thiêu này là một hình thức quyết định rõ ràng và cực kỳ bi thảm, nhưng đó là một hình thức phát biểu chính trị.”

Theo các chuyên gia, có nhiều phần chắc các cuộc phản kháng chống lại các chính sách của Trung Quốc trong các vùng của người Tây Tạng sẽ không sớm chấm dứt, nhất là khi phản ứng của chính phủ ở Bắc Kinh cho đến lúc này vẫn là tăng cường an ninh và ức chế nhân quyền.
source
VOA Vietnamese

Thursday, 15 September 2011

Trung Quốc ra 4 án tử hình ở Tân Cương



Wednesday, September 14, 2011 7:58:14 PM



BẮC KINH (AFP) -
Trung Quốc vừa kết án tử hình bốn người về vụ bất ổn ở vùng Tân Cương, sau khi thề sẽ dẹp yên “khủng bố” ở khu vực miền viễn Tây đầy rối ren, theo loan báo của truyền thông nhà nước TQ hôm Thứ Năm.

Người Uighurs ở Turkey biểu tình phản đối người Hán tàn sát dân Uighurs, bên ngoài tòa đại sứ Trung Quốc ở Ankara hôm 5 tháng 7, 2011. (Hình: Adem Altan/AFP/Getty Images)

Hai người khác bị án tù 19 năm do một loạt những vụ bạo động chết chóc xảy ra trong vùng hồi tháng 7, nơi phần lớn người thiểu số Hồi Giáo Uighur từ lâu vẫn đấu tranh chống sự cai trị của người Hán, và chính quyền TQ cho là có những tổ khủng bố do Pakistan huấn luyện đang hoạt động.

Hãng thông tấn chính thức của nhà nước TQ, Tân Hoa Xã, nói cả bốn người bị tuyên án tử hình hôm Thứ Tư, sau khi xét thấy có tội một ngày trước đó, với tội danh chủ mưu và tham gia tổ chức khủng bố, chế tạo chất nổ bất hợp pháp, giết người và phóng hỏa.

Cũng theo Tân Hoa Xã, hai người bị án tù có tội “tán trợ” những vụ bạo động, và bản án do tòa án ở hai xứ Kashgar và Hotan xa xôi đưa ra.

Vụ xử án liên hệ đến cuộc tấn công vào một trạm cảnh sát ở Hotan hôm 18 tháng 7, khiến bốn người thiệt mạng, và hai cuộc tấn công trong hai ngày 30 và 31 tháng 7 ở Kashgar đưa đến cái chết của 13 người.

Những biến cố này tạo một làn sóng rối ren gây tử vong cho ít nhất là 22 người, trong đó có 8 người tình nghi có nhúng tay vào các cuộc tấn công, khiến các giới chức cao cấp ở Tân Cương thề thẳng tay trừng trị.

Vụ xung đột ở Hotan được một giới chức địa phương mô tả như là một vụ tấn công khủng bố, theo đó một đám đông đánh vào một trạm cảnh sát, khiến 4 người chết, trong đó có 1 cảnh sát. Tuy nhiên giới hoạt động dân chủ cho đây là sự cuồng nộ của người dân Uighurs vì quá phẫn uất.

Tổ chức của người Uighurs ở Ðức, World Uyghurs Congress nói, lực lượng an ninh TQ đã đánh chết 14 người và bắn thiệt mạng 6 người khác, đồng thời tố cáo chính quyền cố giấu diếm thông tin về biến cố này.

Không đầy hai tuần sau, bạo động lại bùng nổ ở thành phố Kashgar, nằm trên đường Tơ Lụa cổ xưa.

Theo chính quyền, bảy người chết và 28 người khác bị thương vào hôm 30 tháng 7, khi hai người dùng dao tấn công một khu chợ đêm; trong vụ này một trong hai người bị hạ sát.

Theo Tân Hoa Xã, một ngày sau, sáu người bị giết trong một vụ tấn công khác, hai người trong một nhà hàng và bốn bị chém ở bên ngoài, với 12 thường dân và 3 cảnh sát bị thương, nhà hàng bị đốt cháy. Tổ chức World Uyghurs Congress nói, lực lượng an ninh bắn chết 6 người và gây thương tích 9 người khác trong biến cố ngày 31 tháng 7. (TP)

source

Nguoi-Viet Online

Friday, 29 July 2011

Bắc Hàn yêu cầu ký kết hiệp định chấm dứt chiến tranh Triều Tiên với Hoa Kỳ



Wednesday, 27 July 2011 23:58

Cali Today News - Thứ tư 27/7 Bắc Hàn đã lên tiếng yêu cầu ký kết hiệp ước hòa bình với Mỹ để chính thức chấm dứt cuộc chiến Triều Tiên, khi các nhà ngoại giao cao cấp Bắc Hàn đến New York.
Hãng tin chính thức của Bắc Hàn là Korean Central News Agency khi tiến hành kỷ niệm 58 năm đình chiến chiến cuộc Triều Tiên (1950-1953) đã nói là ‘một hiệp ước hòa bình có thể giải quyết bế tắt hiện nay về đàm phán 6 bên vấn đề vũ khí nguyên tử của Bắc Hàn’.


Chiến cuộc Triều Tiên đã chấm dứt từ lâu, nhưng về mặt kỹ thuật hai miền vẫn có chiến tranh vì không có hiệp ước hòa bình chính thức, chỉ có hiệp ước đình chiến mà thôi.
Nữ Ngoại Trưởng Mỹ H. Clinton đã mời Thứ Trưởng Ngoại Giao Bắc Hàn Kim Kye Gwan đến thăm New York cuối tuần qua khi các nhà ngoại giao Nam Bắc Triều Tiên gặp nhau bên lề hội nghị Bali của khối Asean.
Kim tuyên bố khi đặt chân đến New York là ‘ông ta hy vọng viễn tượng các cuộc đàm phán nguyên tử sẽ tái tục và mối liên hệ Bắc Hàn-Hoa Kỳ sẽ được cải thiện’. Ông Kim nói: “Đây là thời điểm để hai quốc gia xích lại gần nhau hơn”.
Trong lúc đó Ngoại Trưởng Bắc Hàn Pak Ui Chun nói với Ngoại Trưởng Nam Hàn tại Kuala Lumpur của Mã Lai Á là ‘Bình Nhưỡng luôn ủng hộ các biện pháp để xóa bỏ các hăm dọa nguyên tử trên bán đảo Triều Tiên’.
Các cuộc đàm phán 6 bên quy tụ Hoa Kỳ, Trung Quốc, Nhật Bản, Nga, Nam và Bắc Hàn, có mục tiêu ban đầu là cung cấp cho Bắc Hàn các bảo đảm an ninh và trợ giúp kinh tế nếu như Bắc Hàn từ bỏ chương trình vũ khí nguyên tử của mình.
Nhưng sau đó Bắc Hàn đã tìm cách khiêu khích dữ dội trong năm 2010 với hai cuộc tấn công vào tàu chiến và một hải đảo của Nam Hàn, khiến các cuộc đàm phán 6 bên bị bế tắt.
Hiện Hoa Kỳ vẫn còn 28,500 quân nhân trú đóng ở Nam Hàn, theo sau hiệp ước đình chiến năm 1953 và Bắc Hàn cứ rêu rao họ muốn có vũ khí nguyên tử chính là để chống lại số quân Mỹ này.
Trần Vũ theo AP

source

Cali Today

Thursday, 7 July 2011

Có những điểm tương đồng giữa nhà Thanh và chính quyền Trung Quốc hiện nay?


Cập nhật: 10:51 GMT - thứ năm, 7 tháng 7, 2011

Ứng phó với bất bình ở Trung Quốc

Có những điểm tương đồng giữa nhà Thanh và chính quyền Trung Quốc hiện nay?

Phản ứng của chính phủ Trung Quốc trước các cuộc biểu tình của dân chúng – phong trào Thiên An Môn 1989 hay “Cách mạng Hoa nhài” 2011 – được mô tả như một chính quyền rơi vào thế thủ cố lo mà đàn áp mọi hình thức bất mãn của nhân dân. Tuy nhiên, trong cuốn sách của tôi The Wobbling Pivot, China since 1800 (tạm dịch: Điểm tựa lắc lư, Trung Quốc từ 1800), tôi thấy nên nhìn những sự kiện như vậy, dù trong quá khứ hay hiện tại, thông qua mối quan hệ dễ thay đổi giữa trung tâm và các địa phương.

Giới sử gia thường chỉ ra rằng từ cuộc chinh phạt Trung Hoa năm 1644 đến cuộc chinh phạt Tân Cương 1755, diện tích đế chế Thanh triều đã trở nên to gấp đôi so với đế chế Minh triều trước đó, và dân số cũng tăng gấp đôi. Nhưng điểm thực sự quan trọng về các con số này lại thường bị bỏ qua – dẫu rằng diện tích và dân số tăng gấp đôi, chính quyền nhà Thanh không lớn hơn nhiều so với nhà Minh. Ta hình dung có một lớp màng mỏng phải kéo căng trên một thùng hàng nay to và sâu gấp đôi. Những đế chế khác, như Nga và Ottoman, cũng đã áp dụng phương pháp chính quyền rất nhỏ và hệ thống thuế tương đối nhẹ tay để ngăn ngừa nội loạn vào lúc mở mang đế chế.

Tổ chức địa phương

Điều quan trọng là ảnh hưởng của chiến lược này. Trước hết, chính quyền lấy quân đội làm ưu tiên cao nhất, và cấp ngân sách cho rất ít lĩnh vực của việc quản lý hay phát triển. Ví dụ, giáo dục tại Trung Quốc truyền thống hầu như được bảo trợ tài chính hoàn toàn nhờ tư nhân. Do độc quyền về sức mạnh quân đội chính quy, nhà nước có thể ép từ giới quý tộc đến dân đen đóng thuế, lao động nhằm đáp ứng những nhu cầu thông thường của xã hội. Điều này có nghĩa là nhiều mặt trong việc cai trị địa phương – từ việc điều tra dân số, thu thuế, bảo trì hệ thống tưới tiêu và đường xá – được tư nhân hóa. Bên dưới tầm viên chức địa phương và địa chủ lớn, người dân quê gánh phần lớn trách nhiệm: không chỉ phải lo công việc đồng áng, mà còn lo cả an ninh cho chính họ. Họ quản lý các nhóm dân phòng, và trong nhiều trường hợp, buộc phải hợp tác với băng nhóm tội phạm để có an ninh. Họ phải tin nhau, và thường nghi ngờ kẻ ngoài, đặc biệt là giới chức chính quyền.

Những người dân rành rẽ cách dùng đơn kêu oan, đình công, hay thậm chí tổ chức các vụ nổi loạn nhỏ, có thể thành công để giới chức địa phương bị cách chức, thuế được xóa hoặc giảm tiền thuê ruộng đất.

Giới sử gia đôi khi cho rằng các tổ chức địa phương phức tạp và bền vững này – dù hợp pháp hay phi pháp – đã tồn tại bất chấp chính quyền. Nhưng nhà Thanh lại phụ thuộc vào sự cố kết của các tổ chức địa phương, để tránh trách nhiệm và tổn phí cho chính quyền trung ương. Sự thừa nhận phụ thuộc này được thể hiện trong nhiều khía cạnh của luật pháp.

Vì chính quyền trung ương phải dựa vào các tổ chức địa phương trong việc gìn giữ trật tự, làm nông, môi trường…, nên dư luận địa phương luôn quan trọng với triều đình. Tham nhũng – khi giới chức làm theo ý mình, chứ không phải ý của triều đình – là tội lớn mà có thể đem lại hậu quả tàn khốc. Tuy vậy, Thanh triều không có phương tiện toàn diện và hữu hiệu để phát hiện tham nhũng. Một dấu hiệu đáng tin nhất về sai trái của quan chức là khi nổ ra biểu tình, hay nổi loạn. Tương tự, việc khiếu nại lên triều đình có thể là bài kiểm tra sự bất tài hay tham nhũng của quan địa phương.

Vì vậy, tiến trình chính trị truyền thống ở Trung Quốc đã phụ thuộc vào việc người dân phải lên tiếng khi họ bất mãn. Những người dân rành rẽ cách dùng đơn kêu oan, đình công, hay thậm chí tổ chức các vụ nổi loạn nhỏ, có thể thành công để giới chức địa phương bị cách chức, thuế được xóa hoặc giảm tiền thuê ruộng đất.

Phản ứng song đôi

Nhà nước thường có phản ứng song đôi: Một, đàn áp thẳng tay bạo động và trừng phạt quan chức. Hai, phô trương việc sửa sai để chứng tỏ đó chỉ là sai lầm nhất thời của một chính quyền tốt. Ngay cả những phong trào thành công nhất của dân chúng cũng sẽ có những tử sĩ, như một phần cần thiết của cả tiến trình.

Dĩ nhiên, một chính quyền dựa vào sự cân bằng mỏng manh giữa phản ứng của dân chúng và sự đáp trả của trung ương sẽ cận kề nguy hiểm nếu sự cân bằng đó bị phá vỡ. Dưới triều Thanh, các vụ tranh chấp địa phương có thể dẫn tới nổi dậy – một số cuộc nổi dậy kéo dài đến hơn 10 năm. Trong thế kỷ 18, nhà Thanh đủ sức đàn áp các cuộc nổi dậy và xoa dịu các nhóm dân phẫn uất vì tham nhũng. Nhưng dần dần, nhà nước ngày càng kém cỏi trước các thách thức. Sang thế kỷ 19, chính quyền Trung Quốc bị suy nhược vì tham nhũng, sản xuất nông nghiệp kém đi, và đòi hỏi của các thế lực châu Âu sau khi Trung Quốc bị đánh bại trên bộ và trên biển. Các tổ chức địa phương quản lý kinh tế và tự vệ ngày càng mạnh mẽ, còn chính quyền trung ương yếu đi đến mức chưa từng thấy trong hai thế kỷ trước đó.

Chừng nào đây vẫn là thành tố hiến pháp trong chính trị Trung Hoa, thì nhu cầu phát triển định chế của một chính phủ tự do vẫn bị ngăn chặn. Và chính phủ Trung Quốc, trong mắt nhiều người, sẽ vẫn tiếp tục có vẻ bất ổn hơn so với thực tế.

Đỉnh điểm là cuộc nội chiến từ loạn Thái Bình Thiên Quốc vào giữa thế kỷ 19. Cuộc nổi dậy rộng khắp và kéo dài đến mức triều đình chỉ có thể tồn tại bằng cách để toàn bộ tài nguyên và giao thông rơi vào tay địa phương. Khi chiến tranh chấm dứt, toàn bộ chức năng của chính quyền – kể cả ngoại giao và quân sự - nay thuộc quyền kiểm soát của những người đã cầm quân trong chiến tranh. Mặc dù đến cuối thế kỷ 19, Thanh triều vẫn mang tiếng là cai trị Trung Hoa, nhưng thực ra đất nước nằm trong tay các lãnh chúa, mỗi người có bộ máy hành chính, thu thuế và ngoại giao riêng. Mô hình này kéo dài đến nửa đầu thế kỷ 20, và chỉ bị triệt hạ bằng việc tái cấu trúc bộ máy địa phương với cao trào là Cách mạng Văn hóa cuối thập niên 1960.

Không bao giờ ta có thể tính chính xác kích cỡ chính quyền so với xã hội. Tuy vậy, khi so sánh số người nhận lương của chính phủ trung ương và toàn bộ dân số, ta thấy chính quyền Trung Quốc hiện đại to gấp hàng trăm lần so với triều đình phong kiến. Nó cũng được trang bị công nghệ để theo dõi, lung lạc, cưỡng ép, và nếu cần thì dùng vũ lực đánh bại.

Vì vậy, thoạt nhìn cứ tưởng như Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa không còn cần đến cách hành xử truyền thống trước những hoạt động hay bất mãn của dân chúng. Nhưng, sự gia tăng dân số từ mấy trăm năm đem lại những thách thức, giảm bớt một số lợi thế mà chính phủ hiện nay có được. Đồng thời, nhiều sự phức tạp mà triều đình phong kiến đối diện – đa dạng văn hóa, khoảng cách kinh tế giữa các giai cấp, khác biệt giữa nông thôn và thành thị - vẫn còn đó, và thường được mở rộng vì khủng hoảng môi trường, một hiện tượng trước đây chưa có. Kể từ đầu thập niên 1980, chính phủ buộc phải giảm bớt tập trung hóa, để dân chúng tự chủ động thực hiện nhiều sáng kiến. Giống như các chính quyền trước đây, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa vẫn cần một sự cân bằng mới trong quan hệ dễ thay đổi giữa chính phủ và xã hội.

Kết luận

Có lẽ quan trọng nhất, văn hóa chính trị truyền thống trong dân chúng vẫn chưa bị xóa bỏ.

Phong trào Thiên An Môn 1989 có những hình thức tương tự các cuộc biểu tình truyền thống

Trong khi nhiều xã hội khác, từ 300 năm qua, đã phát triển các định chế đại diện, lập pháp và kiện tụng, Trung Quốc không hề có những định chế đó, hay nếu có thì chỉ là hình thức. Các cuộc biểu tình tại Trung Quốc, dù là hòa bình hay bạo lực, xuất phát từ nhiều bất bình mà dân chúng ở những nước khác có lẽ chẳng bao giờ xem là đáng phải xuống đường – những vụ lừa đảo kinh doanh, cảnh sát giao thông xử sai, bất đồng quanh lộ giới hành chính, cấp phép, hay thậm chí các cuộc thi giải trí.

Một số phong trào như vậy – như phong trào sinh viên ở Thiên An Môn – cố ý dùng hình thức kiến nghị theo phong cách truyền thống, ví dụ nằm sóng soài ra đường. Tất cả đều mang những biểu ngữ lớn, thường kèm khẩu hiệu tiếng Anh và tiếng Hoa, gợi nhớ Phong trào Ngũ Tứ 1919. Ngày nay cũng như quá khứ, tham nhũng thường là chất xúc tác của các phong trào. Nhưng trong thế kỷ 20, vấn nạn môi trường và bất công đã trở thành yếu tố mới và rất khẩn thiết trong các cuộc biểu tình và nổi loạn. Lịch sử gần đây của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa cho thấy người dân hy vọng các phong trào sẽ đạt được những mục tiêu truyền thống và không phải lúc nào họ cũng bị thất vọng. Trong nhiều trường hợp, chính phủ trung ương cho phép người dân đánh bại chính quyền địa phương trước khi người của trung ương kéo vào. Giới chức và doanh nhân địa phương sẵn sàng bị đem ra làm vật tế thần, và hình phạt, có khi nặng nề, thường được tiến hành chóng vánh.

Phản ứng song đôi – vừa đàn áp thẳng tay nổi loạn, nhưng cũng thừa nhận bất mãn của dân – vẫn tiếp tục là mô hình cai trị ở Trung Quốc hiện đại cũng như phong kiến. Và điều đó duy trì một xu hướng trong người dân, đó là sẵn sàng hy sinh một thiểu số người hoạt động với hy vọng có sự chỉnh sửa cho đa số.

Chừng nào đây vẫn là thành tố hiến pháp trong chính trị Trung Hoa, thì nhu cầu phát triển định chế của một chính phủ tự do vẫn bị ngăn chặn. Và chính phủ Trung Quốc, trong mắt nhiều người, sẽ vẫn tiếp tục có vẻ bất ổn hơn so với thực tế.

Giáo sư Pamela Crossley nhận bằng tiến sĩ ở Đại học Yale năm 1983, hiện dạy ở khoa Lịch sử của Đại học Dartmouth, tiểu bang New Hampshire, Mỹ. Bà từng nhận giải Levenson Prize of the Association for Asian Studies năm 2001. Cuốn The Wobbling Pivot, China since 1800 là tác phẩm mới nhất của bà.

source

BBC Vietnamese