Showing posts with label Biển Đông. Show all posts
Showing posts with label Biển Đông. Show all posts

Thursday, 8 May 2014

TQ đưa giàn khoan vào gần đảo Lý Sơn


TQ đưa giàn khoan vào gần đảo Lý Sơn

Cập nhật: 03:22 GMT - thứ hai, 5 tháng 5, 2014
Giàn khoan 981 là giàn khoan siêu sâu hàng đầu của Trung Quốc
Việt Nam vừa lên tiếng phản đối Trung Quốc đưa giàn khoan vào tác nghiệp trong vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của Việt Nam.
Đáp lại, Trung Quốc tăng phạm vi cấm tiếp cận giàn khoan 981 thêm 2 hải lý nữa.

Đây là vị trí nằm sâu trong EEZ của Việt Nam, cách đảo Lý Sơn chừng 119 hải lý (221km), thuộc lô 143 trên bản đồ dầu khí của Việt Nam.Báo trong nước dẫn thông báo trên website của Cục Hải sự Trung Quốc nói trong thời gian hơn ba tháng từ ngày 2/5 đến ngày 15/8, giàn khoan Hải Dương 981 của Tổng công ty Dầu khí hải dương Trung Quốc (CNOOC) sẽ hoạt động tại tọa độ 15 độ 29' N/111 độ 12’E.
Vị trí mà Trung Quốc đặt giàn khoan cũng cách bãi ngầm, hay còn gọi là đảo Tri Tôn (tên tiếng Trung là Trung Kiến) thuộc quần đảo Hoàng Sa, mà Trung Quốc hiện đang kiểm soát tuy Việt Nam cũng tuyên bố chủ quyền, 18 hải lý.
Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Lê Hải Bình nói tối hôm Chủ nhật 4/5: “Việt Nam có đầy đủ bằng chứng lịch sử và cơ sở pháp lý khẳng định chủ quyền của mình đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, cũng như quyền chủ quyền và quyền tài phán đối với vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của mình được xác định phù hợp với Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển 1982".
Ông Bình nói: "Mọi hoạt động của nước ngoài trên các vùng biển của Việt Nam khi chưa được phép của Việt Nam đều là bất hợp pháp và vô giá trị, Việt Nam kiên quyết phản đối”.
Cùng ngày 4/5, Tập đoàn Dầu khí Việt Nam đã gửi thư tới chủ tịch và tổng giám đốc của CNOOC phản đối hành động của Trung Quốc và yêu cầu CNOOC "dừng ngay lập tức các hoạt động bất hợp pháp và rút giàn khoan Hải Dương 981 ra khỏi vùng biển của Việt Nam".

Khẳng định đường chín đoạn

Cảnh báo của Cục Hải sự Trung Quốc còn cấm các loại phương tiện "không được xâm nhập" vào khu vực giàn khoan nói trên hoạt động trong phạm vi bán kính 1 hải lý.
Sau khi Việt Nam lên tiếng phản đối, nhà chức trách Trung Quốc tăng phạm vi bán kính này lên thành 3 hải lý.
Hành động của Trung Quốc, theo Tiến sỹ Ian Storey từ Viện Nghiên cứu Đông Nam Á ở Singapore, "là chỉ dấu rằng Trung Quốc đang khẳng định quyền thăm dò và khai thác tài nguyên trong đường chín đoạn của mình cho dù nguồn tài nguyên đó có nằm trong EEZ của quốc gia khác hay không".
"Nếu như Tòa Trọng tài Quốc tế phán quyết rằng đường chín đoạn của Trung Quốc không hợp pháp theo Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển (UNCLOS), Việt Nam sẽ có cơ sở vững chắc hơn để phản đối những hoạt động như thế này của Trung Quốc."
Tiến sỹ Ian Storey
Vị trí giàn khoan 981 nằm bên trong đường yêu sách chủ quyền còn được gọi là đường 'lưỡi bò'.
Ông Storey cảnh báo rằng sự kiện này có thể dẫn tớ́i một đợt bùng phát căng thẳng mới về chủ quyền Biển Đông giữa Việt Nam và Trung Quốc, mà trong năm 2013 dường như đã lắng xuống đáng kể.
Ông cũng cho rằng Việt Nam sẽ có cơ hội phản đối mạnh mẽ hơn nếu như Philippines thắng trong vụ kiện Trung Quốc tại Tòa Trọng tài Quốc tế.
"Nếu như Tòa Trọng tài Quốc tế phán quyết rằng đường chín đoạn của Trung Quốc không hợp pháp theo Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển (UNCLOS), Việt Nam sẽ có cơ sở vững chắc hơn để phản đối những hoạt động như thế này của Trung Quốc."
Giàn khoan 981 là giàn khoan dạng nửa chìm, có thể hoạt động ở độ sâu tối đa 3.000m, độ sâu giếng khoan tối đa 12.000m.
Giàn khoan này dài 114m, rộng 90m, gồm năm tầng cao 136m và có trọng tải tịnh hơn 30.000 tấn.
Đây là giàn khoan siêu sâu đầu tiên do Trung Quốc tự sản xuất.
Vị trí mà Trung Quốc đưa giàn khoan 981 vào hoạt động

Nguy cơ căng thẳng mới?

Giàn khoan 981 đã được đưa xuống Biển Đông từ năm 2011, gây quan ngại cho các nước trong khu vực.
Tốn gần 1 tỷ đôla để xây dựng, giàn khoan này có thể được sử dụng để phục vụ nhiều mục đích như kho học, dầu khí và quân sự.
Lúc đó, các chuyên gia Việt Nam đã cảnh báo về ý đồ dần dần chiếm hữu Biển Đông thông qua hoạt động dầu khí của Trung Quốc, nhất là khi vị trí đặt giàn khoan nằm trong vùng EEZ của các nước xung quanh.
Họ gọi đây là "thách thức chủ quyền" mà Trung Quốc "ngang ngược" áp đặt.
Trong một bài viết năm 2011, nhóm Nghiên cứu Biển Đông cho rằng việc Trung Quốc mang giàn khoan xuống Biển Đông là cách thức "thực hành chiếm cứ biển và từ đó khẳng định sự chiếm hữu thật sự Biển Đông qua hình lưỡi bò".
Họ cho rằng giàn khoan 981 còn đặt ra một tiền lệ mới "ai đến trước, được hưởng trước" đối với các tài nguyên không tái tạo tại Biển Đông và từ đó Trung Quốc sẽ dần dần ép buộc các quốc gia Biển Đông phải tuân theo chiến lược "gác tranh chấp, cùng khai thác" theo kiểu Trung Quốc.
Thực tế, Trung Quốc đã tiến hành khảo sát địa chấn tại khu vực đảo Tri Tôn, quần đảo Hoàng Sa và tại các lô dầu khí 141, 142 và 143 trên thềm lục địa Việt Nam từ tháng 5/2010.
Việt Nam cũng nhiều lần lên tiếng phản đối, nhưng các hoạt động dầu khí của Trung Quốc vẫn tiếp tục diễn ra.
Năm 2011 là năm có nhiều căng thẳng giữa Việt Nam và Trung Quốc trong lĩnh vực thăm dò khai thác dầu khí. Liệu với sự kiện giàn khoan 981, hai nước có lâm vào một đợt căng thẳng mới?
source
BBC Vietnamese

Thursday, 5 April 2012

Báo TQ phản ứng vụ Palau bắn ngư dân


Báo TQ phản ứng vụ Palau bắn ngư dân

Cập nhật: 13:14 GMT - thứ năm, 5 tháng 4, 2012

Palau có vùng kinh tế đặc quyền rộng 630 nghìn km vuông

Hoàn cầu Thời báo phản ứng vụ ngư dân Trung Quốc bị bắn ở Palau trong bối cảnh báo này gọi là ‘Thái Bình Dương ngày càng ít yên bình’.

Tờ báo theo khuynh hướng dân tộc chủ nghĩa của Trung Quốc đã lên tiếng hôm 5/4/2012 sau vụ một ngư phủ Trung Quốc bị trúng đạn chết và nhiều người khác bị cầm giữ bởi đảo quốc Palau hôm 31/3 hoặc 1/4 tùy theo múi giờ Trung Quốc.

Chiếc tàu chính cho nhóm ngư dân này đã bị cháy, còn thuyền nhỏ chở họ đi bắt hào to ở vùng bờ biển bị nạn, theo các hãng thông tấn.

Báo Pacific Daily News dẫn lời phát ngôn viên cho Phủ Tổng thống Palau, ông Fermin Meriang, thuật lại rằng khi thuyền cá Trung Quốc lao tới, cảnh sát biển Palau buộc phải nổ súng cảnh báo vào máy tàu chứ không nhằm vào ai cả.

Nguồn tin này trích quan chức Palau nói "một viên đạn chắc đã văng ra và găm trúng vào đùi một thuyền viên Trung Quốc" khiến ông này chết vì mất máu trước khi được đưa vào bệnh viện.

Con số người bị bắt cũng chưa rõ chỉ là năm người hay 25.

Báo Hoàn cầu gọi đây là vụ ‘xung đột nghề cá’ giữa Trung Quốc và Palau.

Hậu quả là vụ việc “gây sốc” cho người dân Trung Quốc, theo bài báo.

Bài báo cũng coi Palau, một đảo quốc chỉ có 200 nghìn dân, nằm gần Guam và cách Philippines 500 hải lý, là thuộc nhóm “các nước xung quanh” Trung Quốc trên biển.

Tờ báo thừa nhận “trong những năm gần đây, tranh chấp của Trung Quốc trên biển với các nước xung quanh ngày càng trở nên thường xuyên,”

Bài báo trích lời các nhà nghiên cứu tại Đại học Chiết Giang nói rằng “biển Thái Bình Dương như đang ngày càng ít bình yên”.

Tuy nhiên báo Hoàn cầu không đi vào chi tiết về các vụ va chạm đó mà chỉ đề nghị một biện pháp tìm thỏa thuận song phương để “bảo hộ dân sự” cho các công dân nước ngoài khi có xung đột trên biển.

Tờ báo này viết: “Đề nghị của chúng tôi là Trung Quốc cần tìm cách tham gia các thỏa thuận bảo vệ dân sự song phương” với một số chính phủ nước ngoài,”

Tàu đánh cá của Trung Quốc hoạt động ngày càng xa vùng biển truyền thống

“Qua đó, sẽ có thể thúc đẩy cộng đồng quốc tế ký biên bản đa phương để bảo vệ công dân ở hải ngoại.”

Hoa Kỳ phòng vệ giúp

Trong lúc cơ quan ngoại giao Trung Quốc tiếp tục điều tra vụ bắn chết ngư dân nước họ đánh bắt tại vùng đảo Palau, vụ việc được quốc tế chú ý đến còn vì chiếc du thuyền siêu hạng của tỷ phú Mỹ, Paul Allen cũng tham gia cứu họ các thành viên thủy thủ đoàn Trung Quốc.

Hôm thứ Tư, Bộ Ngoại giao Trung Quốc cho hay trên trang mạng của họ rằng Đại sứ quán nước này tại Micronesia, đảo quốc cạnh Palau, đang điều tra vụ ngư dân mà họ vẫn chưa xác định được danh tính.

Cơ quan ngoại giao Trung Quốc cũng nói nếu công dân họ “vi phạm luật quốc tế” thì lãnh sự sẽ cố gắng hết sức để bảo vệ họ.

Palau chỉ có quan hệ ngoại giao với Đài Loan chứ không duy trì quan hệ với Trung Quốc.

Đảo Palau không có lực lượng phòng vệ riêng mà để cho Hoa Kỳ lo chuyện quân sự và phòng vệ lãnh hải.

Tổng thống Palau Johnson Toribiong đã đưa ra tuyên bố về vụ việc nhưng không nhắc gì đến vụ bắn ngư dân Trung Quốc và chuyện bắt giữ những người khác.

Tuy nhiên, ông cho hay một phi công có giấy phép bay của Hoa Kỳ và hai cảnh sát viên đã mất tích 48 giờ kể từ khi họ đi tìm chiếc tàu chính bị cháy.

Tuần tra biển của Hoa Kỳ và chiếc du thuyền siêu hạng mà người đồng sáng lập tập đoàn Microsoft, ông Paul Allen, làm chủ cũng tham gia tìm kiếm dù ông không có mặt.

source

BBC Vietnamese

Thursday, 18 November 2010

Nếu không bớt hung hăng, Trung Quốc có khả năng “vung đao tự thiến”!


Nếu không bớt hung hăng, Trung Quốc có khả năng “vung đao tự thiến”!

Rajan MenonNguyên Hân lược dịch


Trung Quốc cần kềm chế sự nóng nảy của mình


Phản ứng quá mạnh mẽ của Bắc Kinh đối với những tranh chấp không lấy gì làm quá quan trọng trong thời gian gần đây - sự thường hẳn sẽ được giải quyết một cách nhẹ nhàng - đã làm cho các nước láng giềng của họ quan ngại. Nếu Trung Quốc trở nên siêu cường quốc mạnh nhất thế giới, thì chuyện gì sẽ xảy ra nếu Trung Quốc nổi giận về một điều gì đó quan trọng đối với họ?

Trung Quốc thường hành xử cái uy thế ngoại hạng trên trường quốc tế của mình với sự khéo léo, bảo đảm với các nước láng giềng là Trung Quốc vẫn đang là một nước đang phát triển và được gắn liền với một sự “vươn mình, trổi dậy trong hoà bình.” Cái chính sách khôn ngoan này có được từ quá khứ. Là người thừa kế của một nền văn minh cổ xưa, các nhà lãnh đạo Trung Quốc có một cảm nhận lịch sử sâu sắc, và những nhà chiến lược Trung Hoa đã nghiên cứu kinh nghiệm sự trổi dậy của các quyền lực khác một cách chăm chú.

Sự điều chỉnh để nhường ngôi nhẹ nhàng của nước Anh nhằm cho Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ vượt qua trong đầu thế kỷ thứ 20 là một trường hợp điển hình làm Trung Quốc chú ý. Một trường hợp khác, rất khác biệt, điển hình là trường hợp Đức thách đố vai trò của châu Âu và sự thống trị của Anh trên mặt biển trong cuối thế kỷ thứ 19. Nước cờ của Đức đã gây nên một liên minh giữa Anh, Pháp và Nga, đưa đến sự bao vây nước Đức vào giữa, và cuối cùng là một cuộc thế chiến mang đến cho châu Âu một sự thảm hoạ và nước Đức bị đánh bại. Nhưng sự việc không hẳn cần phải xảy ra như thế. Otto von Bismark, người đã thống nhất nước Đức sau khi Phổ (Prussia) đánh bại quân Áo năm 1866 và Pháp năm 1871, hiểu tầm quan trọng của cái thế mong manh này và ông đã làm vơi nỗi lo âu của các nước láng giềng của Đức để từ đó, những nước này không hợp lực cùng nhau và vây nước Đức. Nhưng một khi ông Kaiser Wilhelm hạ bệ ông Bismark năm 1890, ông Wilhelm vất cái chiến lược của ông Thủ tướng Thép vào sọt rát và tiến hành cái điều đã được chứng minh là con đường đưa đến sự hủy diệt vào năm 1914.

Cái bài học mà Trung Quốc tuồng như học được ở đây, từ những trường hợp thí dụ này là Trung Quốc nên học hỏi từ nước Anh, mà không là nước Đức thời Wilhelmine.

Trước hết là cái lưỡi bò, "lưõi không xương nhiều đường lắt léo". Nguồn: UNCLOS and CIA
Nhưng có điều gì đó mới thay đổi sau này. Chính sách ngoại giao của Bắc Kinh đã mất tính khôn ngoan, khéo léo của mình.

Hãy xét hai thí dụ vừa xảy ra gần đây. Hôm tháng Chín, Nhật Bản, sợ hãi trước sự giận dữ của Trung Quốc, đã thả vị thuyền trưởng tàu đánh cá họ bắt giam sau khi chiếc tàu này đi lạc vào vùng lãnh hải gần với một chùm đảo (Senkaku theo cách gọi của người Nhật, và người Trung Hoa gọi là Diaoyu) mà cả Bắc Kinh lẫn Đông Kinh đều cho mình có chủ quyền nhưng Đông Kinh nắm phần kiểm soát. Nhưng chuyện thả ông thuyền trưởng người Hoa chưa đủ làm nguôi ngoai những nhà lãnh đạo Trung Quốc, những người này đã không bỏ nhỡ cơ hội để trừng trị và làm nhục người Nhật Bản ngay cả sau khi ông thủ tướng Nhật đã nhượng bộ và làm ông bị chính người dân Nhật chỉ trích vì oằn mình trước sự đe doạ của Bắc Kinh. Và Trung Quốc không ngưng lại ở đây màn trình diễn mang tính ngoại giao bày tỏ sự bất bình của mình. Trung Quốc đã cấm bán cho Nhật Bản loại đất hiếm (tối quan trọng cho ngành chế tạo thiết bị điện tử công nghệ cao). Và mặc dù có những tín hiệu rằng Trung Quốc sẽ bỏ lệnh cấm này, việc chuyển vận hàng đất hiếm vẫn chưa được tiến hành lại. Bắc Kinh tuồng như không thèm quan tâm đến chuyện những nước khác cũng sẽ lo sợ cho chuyện cấm đoán này, vì Trung Quốc nắm hơn 90 phần trăm nguồn cung cấp hiện nay trên toàn thế giới cho loại vật liệu nguyên chất cực kỳ quan trọng này.

Trung Quốc đã không bỏ nhỡ cơ hội để trừng trị và làm nhục người Nhật Bản ngay cả sau khi ông thủ tướng Nhật đã nhượng bộ... Nguồn: Globalcartoon
Thí dụ thứ nhì là cơn thịnh nộ Bắc Kinh bày tỏ hôm tháng Mười sau khi nhà hoạt động đấu tranh cho nhân quyền ông Liu Xiaobo được trao giải Nobel Hoà bình. Ông Liu bị gièm pha như một người có âm mưu lật đổ nhà nước và một tội phạm hình sự đơn thuần là vì ông Liu đã viết một bản hiến chương kêu gọi nền dân chủ cho Trung Quốc. Giới lãnh đạo của một đất nước được chào hàng như là một siêu cường mới của thế giới, sắp lên ngôi đã miêu tả một người đàn ông bệnh tật và yếu đuối mà họ đã bỏ tù như là một sự hăm dọa khốc liệt cho chính họ. Nhưng còn nữa. Bắc Kinh đã cảnh cáo chính phủ Na Uy - vốn không liên quan đến cái quyết định ai sẽ được trao giải Nobel Hoà bình - rằng mối quan hệ của họ với Trung Quốc có thể bị tổn hại. Và Bắc Kinh đã khởi động một chiến dịch, hiện vẫn đang tiến hành, nhằm hăm doạ các chính phủ Âu châu bắt họ phải tẩy chay buổi lễ trao giải thưởng này vào tháng Mười Hai sắp tới ở Oslo, thủ đô Na Uy nơi ông Liu sẽ được vinh danh.

Có lẽ sự mất thăng bằng của Trung Quốc chỉ mang tính tạm thời. Có lẽ, những nhà lãnh đạo Trung Quốc đang chơi lá bài tinh thần quốc gia được quần chúng ưa thích ở nước họ nơi mà chủ nghĩa xã hội chỉ còn là một điều vô nghĩa đối với người dân. (Nhưng đó là một trò chơi nguy hiểm; họ có thể bị tẩu hỏa nhập ma, không còn có khả năng để tiết giảm những khủng hoảng trong tương lai có cùng một bản chất nghiêm trọng hơn.) Ai biết? Những gì người ta thấy được rõ ràng là cái phản ứng lỗ mãng, rõ lồ lộ của Trung Quốc đối với những tranh chấp không đáng kể - mà sự thường có thể được giải quyết một cách ôn hoà, nhẹ nhàng - giờ đã làm cho các nước láng giềng lấy làm quan ngại.

Nếu Trung Quốc sẽ trở thành một siêu cường mạnh nhất thế giới, điều gì sẽ xảy ra nếu Trung Quốc nổi giận về một điều gì đó thật sự quan trọng? Đây là câu hỏi được người ta đặt ra ở Ấn Độ, Việt Nam, Nhật Bản và Nam Dương - là chính những nước mà không cần biết những gì họ nói ngược lại - đang theo dõi sự trỗi mình của Trung Quốc với một sự lẫn lộn vừa thán phục mà cũng vừa băn khoăn, lo lắng.

Về phương diện địa lý, những nước này cũng nằm ở những vị trí thuận lợi để cùng với Hoa Kỳ trong một chiến lược bao vây Trung Quốc. Chúng ta hiện khó mà đạt tới điểm này – Trung Quốc có nhiều củ cà rốt và gậy, và các nước láng giềng của Trung Quốc cũng rất khôn ngoan không dại gì đứng về phía Hoa Kỳ một cách máy móc – nhưng hiện đang có những dấu hiệu nghiêm trọng.

Giới lãnh đạo của một đất nước được chào hàng như là một siêu cường mới của thế giới, sắp lên ngôi đã miêu tả một người đàn ông bệnh tật và yếu đuối mà họ đã bỏ tù như là một sự hăm dọa khốc liệt cho chính họ... Nguồn: Globalcartoon
Ấn Độ và Hoa Kỳ, lạnh nhạt với nhau gần suốt cả thời Chiến tranh Lạnh, giờ nói về một liên minh “chiến lược”. Vũ khí do Hoa Kỳ chế tạo giờ tha hồ đổ vào Ấn Độ trong thời gian gần đây. Tổng thống Obama mới tuần nay đã tán thành con đường tìm kiếm lâu dài để có được một ghế ở Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc của Ấn Độ. Trong nhiều năm qua, Ấn Độ và Nhật Bản, về mặt an ninh quốc gia ít có gì để hai bên cộng tác với nhau, giờ đã tiếp cận với nhau trong cuộc đối thoại an ninh, và cùng với Hoa Kỳ, đã có những cuộc tập trận hải quân cùng nhau. Hoa Thạnh Đốn đã không chỉ thuần nối lại mối quan hệ với Việt Nam; nhưng đang làm cho mối quan hệ này ngày càng sâu đậm hơn một cách có hệ thống. Mối quan tâm chung về Trung Quốc là một lý do. Sự cấm bán vũ khí của Hoa Kỳ cho Nam Dương (là một nước khác nghi ngờ Trung Quốc rất thâm trầm) đã được hủy bỏ.

Những sự tái tập hợp, sắp xếp mới này đi kèm theo với những rủi ro. Xem Trung Quốc như đó là một nước có tiềm năng trở nên một kẻ thù có thể trở nên một lời tiên tri của chính mình, điều này làm cho hết thảy mọi người ở trong tình trạng xấu, bất ổn. Nhưng nếu cái đoạn kết này sẽ tránh được, chừng đó cũng không đủ làm cho các nước khác tránh không nghĩ đến cái trường hợp xấu xa nhất. Trung Quốc cần lấy lại cái tư thế của chính mình và trở về lại nguyên thể với nguyên bản bài “vươn mình trổi dậy trong hoà bình, cho hoà bình” – và Trung Quốc cần suy gẫm lại bài học của Bismarck.


© DCVOnline



Nguồn:

(1) Tựa đề do NH đặt.
(2) China needs to lengthen its short fuse. Los Angeles Times, 12 November 2010.
(3) Tác giả Rajan Menon là giáo sư môn khoa học chính trị ở City College of New York/City University of New Y

source
CDV Online

Thursday, 26 August 2010

NGŨ GIÁC ĐÀI CHÍNH THỨC ĐẶT (...) VÀO VỊ THẾ ĐỐI TRỌNG CHIẾN LƯỢC QUÂN SỰ


NGŨ GIÁC ĐÀI CHÍNH THỨC ĐẶT (...) VÀO VỊ THẾ ĐỐI TRỌNG CHIẾN LƯỢC QUÂN SỰ
LÝ ĐẠI NGUYÊN, Aug 20, 2010

Cali Today News - Bản phúc trình của bộ Quốc Phòng Mỹ đưa Quốc Hội ngày 16/08/10, về: “Các diễn biến quốc phòng và an ninh của Trungquốc”.Cho rằng: “Việc bí mật nâng cao năng lực quốc phòng của Trungquốc là điều nguy hiểm, vì có thể gây ra hiểu lầm và tăng cường nguy cơ xung đột”. “Hiện nay Trungquốc đã có khả năng tấn công trên một diện rộng cho tới đảo Okinawa của Nhật và quần đảo Trườngsa của Việtnam”. Bản phúc trình của Ngũ Gìác Đài đánh gía: “Trungquốc sẽ tăng cường tuần tiễu tại Biển Đông. Một điểm nóng trong khu vực”. “Trungquốc đang nâng cấp hệ thống hỏa tiễn, mở rộng các căn cứ tàu ngầm và hiện đại hóa hạt nhân”. “Bắckinh hiện có trong tay 1.150 hỏa tiễn đạn đạo tầm ngắn, và một số lượng không xác định tên lửa tầm trung. Bộ Quốc Phòng Mỹ còn cảnh giác: “Trungquốc chi ra hàng tỷ Mỹkim để nâng cấp quân đội mà không cho thế giới biết”. “Việc thiếu minh bạch trong lãnh vực quốc phòng của Trungquốc đang làm gia tăng sự không rõ ràng, gây nguy cơ hiểu lầm và tính toán lầm”.

Ngũ Giác Đài cảnh báo:“Biển Đông nằm trong tầm ngắm của quân đội Trungquốc”. Điều làm cho Mỹ quan ngại bậc nhất là dự án của Trungcộng nhằm phát triển một loại tên lửa tầm xa đủ sức tấn công các hàng không mẫu hạm của Mỹ ở Thái Bình Dương. Việc xây dựng hệ thống hải quân tác chiến xa bờ, thể hiện học thuyết quân sự mới của Trungcộng. Bản phúc trình ghi nhận “Quân đội Trungquốc đang phát triển cơ sở và phương tiện cho phép họ tung lực lượng đến vùng biển Hoa Đông -Biển Nhậtbản- và biển Hoa Nam - tức Biển Đông Việtnam, còn có thể qua cả Ấn Độ Dương và vượt quá dãy đảo thứ 2 tại Tây Thái Bình Dương”. Theo Ngũ Giác Đài: “Tình hình Biển Đông đã bắt đầu căng thẳng trở lại kể từ năm 2007, bởi các cuộc tranh chấp chủ quyền”. Trungquốc muốn bảo đảm các đòi hỏi chủ quyền rộng khắp Biển Đông, hành xử việc khai thác tài nguyên của khu vực mà họ nhận chủ quyền. Ngoài ra, một sự hiện diện quân sự hùng hậu sẽ cho phép Trungquốc tung lực lượng phong toả hay kiểm soát các tuyến hàng hải trọng yếu trong vùng, vốn là nơi qua lại của 50% lượng hàng vận tải đường thủy trên toàn cầu”.

Rõ ràng là Bộ Quốc Phòng Hoakỳ đã công khai, chính thức đặt Trungcộng vào vị thế ‘Đối Trọng Chiến Lược Quân Sự’ với Mỹ. Mà nưóc Mỹ lại vẫn duy trì Trungquốc trong thế ‘Đối Tác Chiến Lược Kinh Tế’ của mình. Chính nhờ thế mà Trungcộng không dám đánh liều hất đổ chén cơm của mình đi trong lúc này, như kiểu Phát Xít Nhật vào ngày 07/12/1941, bất ngờ tấn công Trân Châu Cảng, mở đầu cuộc Đệ Nhị Thế Chiến tại Á châu. Bởi vậy, trong 50 năm trở lại đây, cuộc chiến tranh nóng giữa Mỹ và Tầu khó có thể xẩy ra. Trừ khi, nền kinh tế Trunghoa không còn cần tới thị trường Mỹ và thế giới Tự do Dân Chủ nữa. Cho nên đây chỉ có thể là hình thái chiến tranh ‘hâm hấp’ không nóng, chẳng lạnh, mà vừa đủ có tác dụng để cho các nước láng giềng Hoalục phải mua vũ khí, tăng cường phòng thủ dưới chiếc dù chiến lược toàn cầu của Mỹ thôi. Cụ thể là ngày 17/08/2010, bộ Quốc Phòng Đàiloan một lần nữa kêu gọi Hoakỳ nhanh chóng cung cấp máy bay F16 CD đời mới, tàu ngầm và trang thiết bị quân sự. Phát ngôn viên bộ Quốc Phòng Đàiloan cho biết: “Chính phủ theo dõi chặt chẽ động thái gia tăng vũ trang của Hoalục”. Các nước Đông Nam Á cũng đổ xô đi trang bị vũ khí, gia tăng quân lực và thiết lập quan hệ quốc phòng với Hoakỳ.

Về phía Nhậtbản thì hầu như tất cả đã quên việc họ muốn quân đội Mỹ phải rời khỏi Okinawa, sau khi thủ tướng Nhật, Hatoyama phải từ chức. Kỷ niệm 65 năm ngày VJ Day, kết thúc chiến tranh thế giới 15/08//1945, lần đầu tiên toàn thể nội các chính phủ cánh tả Nhậtbản đã không tham gia nghi lễ tại đền Yasukuni, tôn thờ tử sỹ Nhậtbản, trong đó có thờ một số tướng lãnh Quân Phiệt. Thủ tướng Naoto Kan đã tới thăm nghĩa trang quốc gia Tokyo, trước khi tham gia lễ tưởng niệm cùng với Nhật Hoàng Akihito, con trai của Hoàng Đế Hirohito của thời chiến tranh Nhật-Mỹ. Thủ tướng Naoto Kan tuyên bố: “Chúng tôi cảm thấy hết sức hối tiếc và bày tỏ sự cảm thông chân thành tới những người bị thiệt hại và gia đình của họ”. Hành động không đến lễ tại đền Yasukuni của nội các, và lời xin lỗi của thủ tướng Nhật đã làm cho Nam Hàn và các nước bị Phátxít Nhật chiếm đóng có thiện cảm, trừ Trungcộng chưa có biểu lộ thái độ.

Trước đây, thường thì những hành động ngang ngược không ai lường trước được của Hàncộng, với một số nhỏ bom nguyên tử, và hỏa tiễn làm cho Nam Hàn, Nhậtbản và Hoakỳ phải lo đề phòng, nhưng cho đến nay, sau những cuộc tập trận đại quy mô của Mỹ và Nam Hàn ngay bên hông Bắc Hàn. Hiện nay với 56 ngàn lính Nam Hàn và 30 ngàn lính Mỹ tập trận từ ngày 16/08/10, nhằm cải thiện hợp tác giữa 2 quân đội Nam Hàn và Mỹ, mà Hàncộng và Trungcộng cũng phải nhắm mắt cho qua, thì sự hù doạ của Bắc Hàn đã hết hiệu lực. Nhất là thái độ của giới chức quân sự Nam Hàn đã tuyên bố: “Sẵn sàng đáp trả, nếu Bắc Triều Tiên thực hiện lời đe dọa tấn công trong các cuộc diễn tập quân sự”. Với chủ trương tái thống nhất Triều Tiên của tổng thống Nam Hàn, Lee Myung-bak đưa ra trong bài diển văn kỷ niệm 65 năm bán đảo này được giải phóng khỏi ách đô hộ của Nhậtbản, cho thấy Nam Hàn đã sẵn sàng thống thất Triều Tiên. Từ trước tới nay Nam Hàn thuờng tỏ ra không muốn thống nhất với Miền Bắc nghèo đói lạc hậu này, để cho đàn anh Trungcộng của Hàncộng phải đeo cái bao phục rách mướp đó. Chính vì vậy mà vai trò của Bắc Hàn không còn gía trị trong mặt trận Á châu nữa, mà chính Trungcộng giờ đây đã trở thành đối trọng chiến lược quân sự của Hoakỳ và cũng là mối đe dọa an ninh hòa bình của Nam Hàn, Nhậtbản, Asean, kể cả Ấnđộ.

Khi Trungcộng trở thành đối trọng quân sự của Hoakỳ, thì việc Hoakỳ trở lại Á châu. Coi sự tự do lưu thông trên biển Đông và việc giải quyết hoà bình tranh chấp Biển Đông nằm trong quyền lợi quốc gia của Hoakỳ. Chủ trương của Mỹ được các nước Asean tán thành. Mỹ đưa hàng không mẫu hạm USS George Washington vào biển Việtnam, cho khu trục hạm USS John S. McCain viếng Đànẵng cùng diễn tập phi tác chiến với quân Việtnam. Hạm đội 7 Hoakỳ tuyên bố hợp tác với hải quân Việtnam là chuyện đương nhiên. Ngày 17/08/2010, Hoakỳ và (...) mở ra các cuộc hội thảo đầu tiên về quốc phòng ở cấp thứ trưởng quốc phòng. Phía Mỹ, cầm đầu bởi ông Robert Scher phó trợ lý bộ trưởng quốc phòng đặc trách khu vực Đông và Đông Nam Á. Phía (...) là (...), nhân vật này được dư luận cho là cật ruột của (...) từ trước nay. Đối với Mỹ đó không là vấn đề, dù (...) có vẫn còn là tay sai thân tín hàng đầu của (...) ở Việtnam thì việc Mỹ gắn bó quốc phòng với (...) cũng cần để cho Trungcộng phải được biết, nên Hoakỳ: “Hoan nghênh cuộc thảo luận cấp cao về phòng thủ với Việtnam, như là dấu hiệu của một quan hệ quốc phòng ngày càng lớn mạnh”. Thực sự, những hành động xâm lăng, tham lam, hung bạo của (...) đối với (...), và toàn vùng Biển Đông đã đẩy quân, dân (...) và các nước Áchâu về phía Hoakỳ, giới cầm đầu (...) nếu kẻ nào còn ngu si đi ngược lại chiều hướng đó thì sớm, muộn đều không tránh khỏi bị trả giá, nặng, nhẹ tùy hành vi của mỗi cá nhân.

Little Saigon ngày 17/08/2010.

source

Calitoday

Wednesday, 11 August 2010

Hướng lên của Trung Quốc và đường đến chiến tranh




John Lee (WSJ Asia) - Trà Mi lược dịch


Bốn năm trước Thế chiến I, tác giả và chính khách người Anh Norman Angell, xuất bản “The Great Illusion,” lý luận rằng cuộc chinh phục quân sự đã trở thành lỗi thời giữa các nền kinh tế hiện đại. Ngày nay, nhiều người làm chính sách cũng dùng cùng logic đó để dự đoán rằng Trung Quốc và Hoa Kỳ có thể tránh được chiến tranh. Giống như những người đi trước (Norman Angell chẳng hạn), họ có thể sai.


Gs. John Mearsheimer (University of Chicago)
Nguồn: uchicago.edu
Đó là các lý luận của nhà khoa học chính trị John Mearsheimer Đại học Chicago trong bài thuyết trình Michael Hintze hàng năm tại Đại học Sydney trong tuần này. Chính trị, hơn là kinh tế, dứt khoát sẽ định hình tương lai của châu Á chỉ như nó đã ảnh hưởng Châu Âu trong thế kỷ trước, giáo sư Mearsheimer tin như vậy. Hướng đi lên của Trung Quốc có thể sẽ châm ngòi một cuộc chạy đua bảo đảm an ninh mạnh mẽ với Mỹ, dẫn đến khả năng lớn xẩy ra chiến tranh giữa hai nền kinh tế lớn nhất thế giới.

Lập luận này đi ngược lại lý luận thông thường ngày nay, chỉ nhìn thấy một tương lai an lành trong quan hệ Mỹ-Trung Quốc. Quan điểm này, vẫn còn phổ biến ở Washington, dựa trên ý tưởng rằng Mỹ có thể kiềm chế Trung Quốc bằng cách để Bắc Kinh đi lên như là một “quốc gia quyết định có trách nhiệm” trong trật tự toàn cầu hiện nay do Mỹ dẫn đầu. Cũng giống như các tầng lớp ưu tú ở châu Âu mà Angell đã viết về và những người cách đây một thế kỷ đã hết sức miễn cưỡng để tưởng tượng một cuộc chiến tranh lớn có thể bùng nổ của, các nhà hoạch định chính sách ngày nay không thể nghĩ rằng chiến tranh sẽ xẩy ra tại Thái Bình Dương.

Tuy nhiên, lịch sử cho thấy rằng các cảnh báo của ông Mearsheimer cần được chú ý. Trước Thế chiến I, theo logic của Angell ‒ sự gián đoạn tín dụng quốc tế và hệ thống mậu dịch sẽ có nghĩa là tất cả mọi người đều thua thiệt trong trường hợp có chiến tranh là điều không thể chối cãi được. Trước năm 1914, khối lượng thương mại hàng năm của Anh, Đức và Pháp là 52%, 38% và 54% GDP tương ứng, phần lớn số thương mại này là mậu dịch giữa các cường quốc vừa kể. Đến năm 1913, Anh đã trở thành thị trường hàng đầu cho hàng xuất khẩu của Đức, và cả hai nước đều hưởng lợi từ mối quan hệ kinh tế đó. Trong mười năn trước Thế chiến vĩ đại, thương mại và dòng vốn giữa các cường quốc này tăng tương ứng 65% và 84%. Tuy nhiên, phụ thuộc lẫn nhau về mặt kinh tế là không đủ để ngăn chặn sự leo thang bi thảm của tình hình ngay sau vụ ám sát Thái tử Franz Ferdinand của Áo (Austria).

Hôm nay, Trung Quốc tự công bố “phát triển hòa bình” và được chấp nhận khắp nơi dường như cũng dựa trên mặt bằng kinh tế vững chắc. Trung Quốc đã phát triển như một quốc gia mậu dịch tuyệt vời, nhưng vẫn là một nước nghèo về GDP bình quân đầu người. Mực xuất khẩu của Trung Quốc đã tạo ra hàng trăm triệu công ăn việc làm, nhưng Trung Quốc vẫn còn phụ thuộc sâu đậm vào công nghệ, và kiến thức của nước ngoài. Để tiếp tục nhanh chóng phát triển kinh tế quốc gia, Đảng Cộng sản Trung Quốc cần một môi trường hòa bình và ổn định ở châu Á. Về phía Mỹ, không có ai ở Washington muốn nhìn thấy một cuộc xung đột với Trung Quốc bùng nổ, đặc biệt là vào thời điểm Mỹ đang phải có mặt ở hai cuộc chiến và những lo ngại về ý định của Iran.

Tuy nhiên, sự lạc quan của Angell cuối cùng dẫn đến sai lầm vì nó dựa trên một giải thích không đầy đủ về các động lực đằng sau mối quan hệ giữa các cường quốc. Trong khi mối quan hệ kinh tế tạo ra động lực thúc đẩy cho hoà bình, Angell đã không tính đến độ cạnh tranh mãnh liệt về mặt chiến lược —đặc biệt là sự đối đầu hải quân đang tăng— giữa cường quốc hiện tại như Anh và một thế lực đang lên nhanh chóng và xét lại như Đức. Và suy luận của Angell cũng không tính đến yếu tố con người của những hành động sai lầm chiến lược và tính sai— đặc biệt là sai lầm của Đại đế Đức Kaiser Wilhelm II —và cuối cùng chiến tranh bùng nổ ở châu Âu.

Những bài học cho châu Á là gì? Trong khi phụ thuộc kinh tế lẫn nhau và nỗ lực của Mỹ để “quản lý” mức đi lên củaTrung Quốc đến nay đã thành công trong việc ngăn ngừa chiến tranh, gần đây những miếng võ ngoại giao trước sự việc Trung Quốc tái xác định biển Nam Trung Hoa là một phần “lợi ích cốt lõi” của Bắc Kinh lại Trung Quốc đã xác nhận những gì các học giả, như Aaron Friedberg, đã nói tữ cả 10 năm nay: Đông Á ngày nay có khả năng tái tạo tình hình châu Âu ở khúc quanh của thế kỷ trước. Khi nói đến mục tiêu chiến lược, Trung Quốc đang nhập đi vào một trật tự khu vực, không do Trung Quốc chủ động, sau nhiều chục năm tự cô lập. Vì những bất mãn cơ bản của Bắc Kinh về biên giới trên đất liền và biên giới hàng hải, Trung Quốc là một cường quốc (theo chủ nghĩa) xét lại. Càng tăng lên hàng cường quốc lớn, tham vọng của Trung Quốc để đảm vệ “lợi ích cốt lõi” lại càng sâu đậm thêm.

Chiến lược lớn của Trung Quốc kể từ những ngày của cựu lãnh tụ Đặng Tiểu Bình là tránh xung đột với một đối thủ đáng gờm hơn nhiều (ví dụ, Mỹ) trong khi Trung Quốc xây dựng “sức mạnh toàn diện của quốc gia.” Ngả theo hướng “chiến thắng châu Á mà không chiến đấu,” như Tướng Trung Quốc Mã Hiểu Thiên (Ma Xiaotian) đã một từng nói, là những lãnh đạo của thế hệ già hơn quan niệm thận trọng là không ngoan, ngay cả khi họ không ngừng tìm kiếm “cơ hội” để mở rộng quyền lực của Bắc Kinh trước sự thua thiệt của Mỹ. Họ vẫn còn nhớ những đau khổ và nhục nhã của thời Mao Trạch Đông, khi Trung Quốc trong cô lập đã cố gắng để đạt được quá nhiều quá nhanh.


Norman Agell (Nobel Hoà bình 1933)
Nguồn: northeyisland.co.uk
Tuy nhiên, như lịch sử khẳng định, một nền hòa bình xây dựng trên khả năng chính trị, khéo léo và kiềm chế hơn là một sự hài hòa vì lợi ích chiến lược là nền hoà bình mong manh, không bền vững. Nếu không có những kinh nghiệm lịch sử thương đau của Trung Quốc gần đây, thế hệ các nhà lãnh đạo tương lai sẽ tự tin và quyết đoán hơn. Ngay cả bây giờ, Đảng Cộng sản và Quân đội Giải phóng Nhân dân cho rằng các nhà lãnh đạo Trung Quốc đang hành động quá chậm để đạt được mục tiêu của chính sách ngoại giao của mình. Mối nguy hiểm là, chỉ cần như Đức đã làm ở châu Âu trong thế kỷ trước, đánh giá quá cao khả năng riêng của mình, và đánh giá thấp những điểm mạnh và quyết tâm của Mỹ —kết hợp với sự không hài lòng chiến lược và thiếu kiên nhẫn— là cách nhanh chóng nhất để Trung Quốc đi dến những tính toán sai lầm tai hại.

Một vài năm trước khi bùng nổ Thế chiến I, Đại đế Wilhelm II công khai tuyên bố rằng ông xem triển vọng một cuộc chiến với Anh Quốc là “một điều không thể tưởng tượng được nhất.” Mặc dù phụ thuộc lẫn nhau sâu đậm về mặt kinh tế, châu Âu đã không thể ngăn chặn một thảm họa. Các nhà lãnh đạo tại Washington và trên toàn châu Á không nên tưởng tượng sai lầm thêm một lần nữa.






© DCVOnline


John Lee là một thành viên thỉnh giảng của Viện Hudson và người nghiên cứu về chính sánh ngoại giao ở Trung tâm Nghiên cứu Độc lập tại Sydney. Ông là tác giả của cuốn “Trung Quốc sẽ thất bại?” (CIS, 2008).


Nguồn: China's Rise and the Road to War, John Lee, Wall Street Journal Asia, August 5, 2010.
source
DCV Online

Sunday, 8 August 2010

Hoa Kỳ-Việt Nam: ‘Cựu thù’ nay thành ‘chiến hữu’ Sunday, August 08, 2010 Bookmark and Share Ngăn chặn tham vọng của Bắc Kinh USS GEORGE WASHINGTO


Hoa Kỳ-Việt Nam: ‘Cựu thù’ nay thành ‘chiến hữu’
Sunday, August 08, 2010







Ngăn chặn tham vọng của Bắc Kinh


USS GEORGE WASHINGTON (NV)
- Hai kẻ từng là ‘cựu thù’, Hoa Kỳ và Việt Nam, đang biểu lộ cho thấy mối quan hệ quân sự đang phát triển khi hàng không mẫu hạm USS George Washington di chuyển ngang khu vực ngoài khơi miền Trung Việt Nam.

Theo bản tin phân tích của nữ ký giả Margie Mason, hãng thông tấn AP, khi tháp tùng, hôm Chủ Nhật 8 tháng 8 năm 2010, phái đoàn quan chức quân sự, chính trị của Việt Nam được hướng dẫn xuống thăm mẫu hạm USS G. Washington ở một địa điểm nằm giữa Ðà Nẵng và quần đảo Hoàng Sa. Hành động này nhằm gửi một thông điệp cho Bắc Kinh biết rằng họ không phải là ông trùm duy nhất ở khu vực biển Ðông.





Chiến đấu cơ F18 chuẩn bị cất cánh trên mẫu hạm nguyên tử USS George Washington khi chiến hạm dừng ở khu vực cách xa ngoài khơi Ðà Nẵng 320km (khoảng 200 dặm) hôm Chủ Nhật 8 tháng 8 năm 2010. Khu vực này nằm giữa Ðà Nẵng và quần đảo Hoàng Sa. Một phái đoàn ‘liên ngành của Việt Nam’ được mời xuống thăm mẫu hạm như một thông điệp gửi cho Trung Quốc biết họ không phải là ông trùm duy nhất của khu vực. (Hình: AP/Photo/Margie Mason)


Cuộc thăm viếng của phái đoàn Việt Nam, bề ngoài đánh dấu 15 năm hai nước thiết lập quan hệ ngoại giao, nhưng diễn ra vào dịp nhiều tin tức liên quan đến sự tranh chấp chủ quyền biển đảo trên biển Ðông, các cuộc tập trận bắn đạn thật qui mô dương oai của Trung Quốc ở các vùng biển đảo tranh chấp với Việt Nam, và tin tức thương thuyết hợp tác hạt nhân giữa Việt Nam và Hoa Kỳ, càng làm tăng thêm sức chú ý cho vấn đề.

Thời điểm của cuộc thăm viếng phản ảnh chủ đích của Hoa Thịnh Ðốn muốn duy trì sự ổn định và an ninh khu vực Á Châu Thái Bình Dương, mà nói riêng biển Ðông, tiếp theo biến cố chiến hạm Nam Hàn bị Bắc Hàn bắn chìm và mới tuần trước, Trung Quốc tập trận hải quân qui mô trên biển Ðông.

Tháng trước, khi tham dự Diễn Ðàn An Ninh Khu Vực ASEAN tổ chức ở Hà Nội, Ngoại Trưởng Hillary Clinton đã làm Trung Quốc tức giận khi bất ngờ kêu gọi Bắc Kinh giải quyết các tranh chấp chủ quyền biển đảo với các nước láng giềng.

“Sự hiểu ngầm về chiến thuật và về sự quan trọng của vùng nước biển Ðông cũng như sự tự do hải hành là quan trọng cho cả Việt Nam và Hoa Kỳ.” Ðại Tá Ross Myers, phi đoàn trưởng phi đoàn của mẫu hạm G.W., nói với AP hôm Chủ Nhật khi các máy bay chiến đấu gầm rú cất cánh biểu diễn.

“Tôi tin chính quyền Bắc Kinh và người Trung Quốc đang cố gắng bảo vệ lợi ích của họ.” Ông nói như thế khi được hỏi về sự gia tăng hung hăng của hải quân Trung Quốc ở khu vực. “Nó còn quan trọng hơn cho Việt Nam và các đối tác có các hành động cho thấy mình cũng có quyền ngang bằng như thế để đạt thịnh vượng kinh tế và hòa bình trong khu vực.”

Ký giả Mason thuật lời viên chức Hải Quân Hoa Kỳ trên mẫu hạm cho hay, “một số tàu chiến của Trung Quốc thấy bám theo mẫu hạm USS George Washington suốt mấy ngày qua khi mẫu hạm di chuyển từ phía Bắc xuống phía Nam của biển Ðông.”

Ngăn chặn tham vọng của Bắc Kinh

Trung Quốc tuyên bố chủ quyền trên gần hết biển Ðông dù nước họ nằm lọt hẳn về hướng Bắc. Các nước trong khu vực Ðông Nam Á, từ Việt Nam, Phi Luật Tân đến Mã Lai, Nam Dương chỉ còn chút rẻo biển sát bờ. Trung Quốc chiếm quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam từ năm 1974, mãi đến năm 1988 đến 1995 mới cướp một số đảo trong quần đảo Trường Sa mà Việt Nam và Phi Luật Tân xác định chủ quyền.

Quần đảo Trường Sa hiện đang có sự tranh chấp chủ quyền giữa Việt Nam, Trung Quốc, Phi Luật Tân, Ðài Loan, Mã Lai và Brunei. Khu vực biển này, ngoài tiềm năng hải sản, theo các khảo cứu khoa học ước lượng chứa đựng dầu khí quan trọng dưới lòng biển. Bà Clinton tuyên bố ở Hà Nội ngày 23 tháng 7 năm 2010 là Hoa Kỳ có lợi ích quốc gia nên muốn thấy các tranh chấp chủ quyền biển Ðông được giải quyết qua đường lối thương thuyết ngoại giao.

“Cái rắc rối là Trung Quốc công khai công bố chủ quyền toàn bộ các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cũng như các vùng biển chung quanh, nên để đẩy lùi được cái đó, cho dù chỉ ở mức độ chỉ có tuyên bố chủ quyền mà không có thi hành, sẽ rất khó khăn.” Arthur Waldron, chuyên viên về quan hệ quốc tế tại đại học Pennsylvania nhận xét.

“Nay thì chúng ta đang cố đuổi theo biến cố thời sự, nhắc cho người Trung Quốc biết chúng ta chưa suy sụp và chúng ta cũng có các bạn hữu trong khu vực”.

Việt Nam từng nhiều lần lên tiếng phản đối các hành động của Trung Quốc trên biển Ðông nhưng chẳng có tác dụng gì. Từ chuyện tổ chức du lịch, xây dựng cơ sở quân sự và hành chính, phi trường, cảng ở các quần đảo tranh chấp hay dò tìm dầu khí các vùng biển chung quanh, Trung Quốc vẫn ngang nhiên tiến hành.

“Việt Nam không ủng hộ chặn giữ Trung Quốc mà cũng giống như phần lớn các nước ASEAN khác, chỉ muốn thấy có các siêu cường khác hiện diện cân bằng lực lượng trong khu vực.” Giáo Sư Carl Thayer, một chuyên viên các vấn đề Việt Nam của nước Úc nhận xét. “Không phải tinh tế lắm cũng nhìn thấy Việt Nam chỉ muốn Hoa Kỳ hiện diện trong khu vực để cân bằng lực lượng với Trung Quốc.”

Mẫu hạm nguyên tử USS George Washington, căn cứ ở Nhật Bản, hiện diện thường trực trên biển Á Châu Thái Bình Dương. Nó là một trong những chiến hạm lớn nhất của Hoa Kỳ. Như một thành phố nổi, có thể mang hơn 70 phi cơ, hơn 5 ngàn thủy thủ và đoàn viên phi hành, mang theo 1.8 triệu kg bom.

Báo điện tử Thông Tấn Xã Việt Nam (TTXVN) chỉ vắn tắt loan báo quan chức “liên ngành” của chế độ có chuyến thăm mẫu hạm nói trên mà không đưa ra thành phần. Chuyến thăm viếng được nói là theo “lời mời của Ðại Sứ Quán Hoa Kỳ tại Việt Nam” và “Ðây là một trong những hoạt động nhân kỷ niệm 15 năm thiết lập quan hệ ngoại giao Việt Nam-Hoa Kỳ (ngày 12 tháng 7)”.

Hồi tuần trước, báo Trung Quốc đăng một bài viết dài bày tỏ bất mãn cao độ nếu như Hoa Kỳ thỏa thuận cung cấp kỹ thuật giúp Việt Nam tự tinh luyện các thanh nhiên liệu hạt nhân.

Phát Ngôn Viên Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ P.J. Crowley xác nhận Bắc Kinh không được tham khảo vấn đề này vì nó không liên quan gì tới Trung Quốc. Một số nhà lập pháp sau khi được báo cáo về diễn tiến thương thuyết với Việt Nam tiết lộ thỏa hiệp có thể sẽ không áp đặt Việt Nam lời cam kết không tự làm giàu uranium mà Hoa Kỳ từng coi như “tiêu chuẩn vàng” cho các sự hợp tác năng lượng hạt nhân phục vụ dân sự.

Mục đích là tránh các nước khác dùng kỹ thuật của Hoa Kỳ để chế tạo bom nguyên tử. Hà Nội phủ nhận rằng họ không có kế hoạch nào tự làm giàu uranium ở Việt Nam.

Trong tuần này, khu trục hạm USS John S McCain, (mang tên ông nội và ông bố Thượng Nghị Sĩ John McCain vốn là thủy sư đô đốc của Hải quân Hoa Kỳ) sẽ ghé thăm cảng Tiên Sa, Ðà Nẵng. Theo tin tức, sĩ quan của chiến hạm sẽ cùng tập huấn với các sĩ quan hải quân Việt Nam về một số hoạt động không có tính “nhạy cảm”. (T.N.)

source

NGUOI-VIET Online

Monday, 26 July 2010

Hoa Kỳ vạch lằn ranh trên biển




27-07-2010

Hoa Kỳ vạch lằn ranh trên biển


Walker MartinTrà Mi lược dịch


FRANKFURT, Germany, July 26 (UPI) ‒ Tuần trước, một cách long trọng chưa từng thấy, Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton gửi tới Bắc Kinh lời cảnh báo về tham vọng của Trung Quốc tại vùng biển Nam Trung Hoa cần phải được cân nhắc trong ba phạm vi riêng biệt.


Joseph Nye tại Việt Nam (Jan 2010)
Nguồn/Photo: lookatvietnam.com
Như thế là vì, như giáo sư Harvard (và cựu trợ lý Bộ trưởng Quốc phòng trong chính quyền Clinton) Joseph Nye quan niệm, quan hệ giữa các cường quốc cũng giống như một ván cờ vua ba chiều. Nó có phương trình quân sự, phương trình kinh tế và kích thước riêng biệt, nhưng liên quan của ảnh hưởng văn hóa. Nye gọi nó là “quyền lực mềm,” khả năng của một cường quốc không buộc các nước khác làm theo ý mình nhưng để các nước khác “muốn những gì mình muốn.”

Vì vậy Clinton đã làm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Trung Quốc Yang Jiechi (Dương Khiết Trì) tức điên lên tại diễn đàn khu vực ASEAN vào tuần trước bằng lời quả quyết rằng việc giải quyết tranh chấp trên biển Nam Trung Hoa nằm trong “lợi ích quốc gia” của Hoa Kỳ trên cả ba phương diện.

Trung Quốc đã chơi lá bài quân sự, bằng cách lập các đồn quân sự ở quần đảo đảo Hoàng Sa và Trường Sa, mặc kệ những tuyên bố chủ quyền của Việt Nam, Philippines, Malaysia, Indonesia và Brunei. Trung Quốc trong những tháng gần đây đã tự tăng vùng quyền lợi trên biển Nam Trung Hoa, đơn phương tuyên bố lệnh cấm đánh bắt cá cùng lặp đi lặp lại những cuộc diễn tập hải quân, đổ bộ và thử nghiệm tên lửa. Việt Nam trả lời bằng công bố mua tàu ngầm Kilo-class của Nga làm.

Vấn đề kinh tế là tâm điểm, vì những dấu hiệu cho thấy vùng biển rộng lớn này có dự trữ dầu và khí đốt lớn. Và Trung Quốc đã cảnh báo một cách rõ ràng với các công ty dầu phương Tây hoạt động trong vùng biển Việt Nam rằng triển vọng tương lai tài chính của họ ở Trung Quốc sẽ bị ảnh hưởng xấu nếu họ tiếp tục.


Ngoại trưởng Mỹ và Bộ trưởng Ngoại Giao TQ (Feb. 21, 2009)
Nguồn: whiterabbitcult.com
Ảnh hưởng văn hóa trở thành vấn đề vì Hoa Kỳ đứng trên nguyên tắc của luật pháp quốc tế, tìm giải pháp hoà bình cho các tranh chấp và tin rằng vì không có quyền lợi nên Mỹ có thể được xem như là môi giới trung thực trong vụ này.

Đằng sau đó còn một câu hỏi văn hóa lớn hơn: ở một độ mà chúng ta có thể thấy được hình dạng mới của cuộc chiến tranh lạnh đang thành hình. Ở một bên là quyền bá chủ của Mỹ, dựa trên (ít nhất là trên nguyên tắc) về tự do thương mại, thị trường tự do và các tổ chức tự do. Mặt bên kia là một mô hình độc đoán hơn, của Trung Quốc, đang xuất hiện, dựa trên quyền lực nhà nước, sự thống trị của nhà nước trên nền kinh tế và các ngành công nghiệp chính và nhà nước kiểm soát (toàn bộ) các phương tiện truyền thông và hệ thống chính trị.

Cùng lúc khả năng xẩy ra cuộc đụng độ giữa các cường quốc ở Đài Loan dường như đã giảm, và có vẻ đang tăng ở vùng biển Nam Trung Hoa, khu vực mà Trung Quốc đã tuyên bố là một trong những “lợi ích cốt lõi” của họ cùng với Tây Tạng và Đài Loan. Clinton cho rằng, tranh chấp lãnh thổ (đã đưa đến những đụng độ trên biển giữa Việt Nam và Trung Quốc trong quá khứ) là một “ưu tiên ngoại giao hàng đầu” và bây giờ đã trở thành mấu “chốt đối với an ninh khu vực.”

“Hoa Kỳ xem quyền tự do giao thông, với cửa ngõ mở rộng vào miền biển châu Á, cùng sự tôn trọng luật lệ quốc tế tại vùng biển Nam Trung hoa là một lợi ích quốc gia,” Clinton nói.

Một bối cảnh kinh tế sâu xa hơn đã vào cuộc từ tuần trước khi Guan Jianzhong, Chủ tịch hãng Đánh giá Tín dụng Dagong Global, công ty đánh giá lớn nhất Trung Quốc, đã cho Financial Times một cuộc phỏng vấn và tuyên bố rằng Hoa Kỳ đã phá sản và tài trợ sức mạnh quân sự của mình bằng tiền vay một cách mà không thể kéo dài được. Lời phê bình của Guan làm người ta nhớ lại những năm 1960 Mao Trạch Đông Hoa Kỳ cho là một “con hổ giấy” và đang sụp đổ (“chủ nghĩa tư bản đang giãy chết”).

“Hoa Kỳ đang phá sản và phải đương đầu với phá sản thuần như một quốc gia con nợ nhưng các cơ quan đánh giá vẫn xếp hạng cao cho nó,” Guan nói. “Trên thực tế, chi tiêu quân sự khổng lồ của Mỹ không phải là tiền do họ tạo được nhưng bằng tiền vay, như thế là không bền vững.”

“Cuộc khủng hoảng tài chính đã xảy ra vì tổ chức đánh giá không tiết lộ đúng những rủi ro và điều này đã mang toàn bộ hệ thống tài chính Mỹ đến bờ vực phá sản, gây thiệt hại lớn cho Mỹ và lợi ích chiến lược của họ,” Guan nói thêm.

Guan có thể có lý, ngoại trừ việc Tân Hoa Xã, cơ quan thông tin chính thức của Trung Quốc đăng một bài nghị luận bất thường vào thứ Sáu cho thấy mức độ báo động cấp cao tại Bắc Kinh về triển vọng kinh tế của chínhTrung Quốc, vì lương công nhân tăng cao và số lao động bắt đầu giảm kết hợp với một hiện tượng nhà đất ảo tưởng.

“Nếu giá nhà đất không được kiểm soát và vấn đề đất đai không được giải quyết, chúng có thể đe dọa ổn định xã hội và nền kinh tế quốc gia,” bài xã luận viết, theo bản dịch tiếng Anh trên tờ China Daily. “Trận chiến bập bênh giữa chính quyền trung ương và các nhóm lợi ích khác cho thấy Trung Quốc đang mắc bệnh bất động sản. Sau khi thấy rất khó khăn để nhà nước thực hiện chính sách tài sản gắt gao hơn, công chúng đã nhận ra rằng các nhóm cùng quyền lợi đã trở nên đủ mạnh để chống lại hoặc làm xáo trộn chính sách kiểm soát tài sản của chính phủ trung ương.”

“Về bản chất, tương tự như ngành công nghiệp tài chính ở Hoa Kỳ, ngành bất động sản của Trung Quốc quá lớn để sụp đổ. Vì vậy, không phải là cường điệu khi nói rằng lĩnh vực nhà đất đã bắt cóc nền kinh tế Trung Quốc,” bài báo nói thêm. “Khả năng bất ổn xã hội đang trở thành thực tế vì nhà ở và các vấn đề liên quan tới đất đai mỗi ngày một tệ hơn.”


Trẻ chơi trên đường xe lửa cạnh khu phố nghèo (Shenyang, China - March 11 2009)
Nguồn/Photo: habitants.org
Tóm lại, lãnh đạo Trung Quốc đang lo lắng, ngay cả khi họ bắt nạt các nước láng giềng và tuyên bố Mỹ đang suy sụp. Nhưng bây giờ Hoa Kỳ, biết rằng Trung Quốc đang đau khổ vì điểm yếu của mình trên bàn cờ vua chiến lược ba chiều trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương, đã vạch một đường trrên mặt biển Nam Trung Hoa. Người ta vẫn còn đợi xem lằn ranh đó có đứng vững hay không và các quốc gia vùng Đông Nam Á sẽ chọn đứng về phía nào.


© DCVOnline

Thursday, 18 March 2010

Hội Địa lý Quốc gia Mỹ thay đổi chú thích về Hoàng Sa trên bản đồ


Ngày 26.03.2010 Giờ 11:37

Hội Địa lý Quốc gia Mỹ thay đổi chú thích về Hoàng Sa trên bản đồ

Bản đồ đã được National Geographic chỉnh lại về tên gọi quần đảo Hoàng Sa (Paracel Islands).

Sau khi có các phản ứng của Việt Nam về vụ chú thích về quần đảo Hoàng Sa trên bản đồ của hội Địa lý Quốc gia Mỹ, ngày 25.3.2010, hội đồng chính sách bản đồ của hội Địa lý Quốc gia Mỹ đã họp để thảo luận những chi tiết cụ thể về vấn đề Hoàng Sa.

Dựa trên những thông tin và nghiên cứu tốt nhất hiện nay, hội đồng chính sách bản đồ đã quyết định nguyên tắc để tên quần đảo Hoàng Sa trên các bản đồ của hội (trên website www.nationalgeographic.com) được thay đổi như sau:

- Các bản đồ thế giới cỡ nhỏ: sử dụng tên thông dụng với Hoàng Sa là Paracel Islands, bỏ qua những thông tin về chủ sở hữu.
- Các bản đồ vùng, lục địa và khu vực cỡ lớn: sử dụng tên thông dụng - Paracel Islands. Có chú thích về chủ quyền: bị chiếm giữ bởi Trung Quốc vào năm 1974; nước này gọi quần đảo là Xisha Qundao; Việt Nam đang đòi chủ quyền, nước này gọi là Hoàng Sa (chữ Hoàng Sa viết đầy đủ, có dấu tiếng Việt trong thông cáo báo chí của hội).

P.V

source

http://sgtt.com.vn/Detail3.aspx?ColumnId=3&newsid=64787&fld=HTMG/2010/0326/64787


Hội Địa Lý Quốc Gia Mỹ thừa nhận thiếu sót về Hoàng Sa
VIỆT NAM -
Bài đăng : Thứ năm 18 Tháng Ba 2010 - Sửa đổi lần cuối Thứ năm 18 Tháng Ba 2010

Trên bản đồ châu Á - Thái Bình Dương năm 1989, NGS còn dùng tên quốc tế Paracel để chỉ Hoàng Sa với ghi chú "Trung Quốc quản lý - Việt Nam đòi chủ quyền". Ảnh chụp ngày 18/3/2010.
NGS
Đức Tâm

Ngày 16/03/2010, trên trang web của Hội Địa Lý Quốc Gia Mỹ, NGS, có đăng thông báo về vấn đề gọi tên quần đảo Hoàng Sa trên bản đồ của Hội. Sau khi khẳng định Hội là một tổ chức phi chính trị, phi lợi nhuận, NGS xác nhận là quần đảo Hoàng Sa đã bị Trung Quốc chiếm và quản lý từ năm 1974. Vì lý do đó trên bản đồ, Hội đã chỉ ghi tên Trung Quốc phía dưới quần đảo Hoàng Sa. Tuy nhiên, Hội Địa Lý Mỹ cũng thừa nhận thiếu sót khi chỉ ghi tên Trung Quốc vào quần đảo Hoàng Sa trên bản đồ.

NGS giải thích rằng trên các bản đồ khu vực và các bản đồ khác, nếu có kích cỡ đủ lớn, thì Hội đôi khi có ghi quần đảo này theo tên gọi của Việt Nam là Hoàng Sa hoặc tên gọi truyền thống là Paracel, đi kèm với những chú giải là Trung Quốc chiếm đóng và quản lý quần đảo, Việt Nam đòi chủ quyền đối với quần đảo này. Hội cho rằng mọi người đều biết thực tế nói trên.

NGS cho biết là vừa qua đã nhận được nhiều thư kiến nghị liên quan đến việc ghi tên quần đảo trên bản đồ thế giới của Hội. Do tỷ lệ bản đồ nhỏ, nên khó có thể đưa thêm các thông tin chi tiết đối với một hòn đảo nhỏ như Paracel. NGS đã xem xét kỹ lưỡng lại tình hình và thừa nhận rằng việc chỉ ghi quần đảo này với tên gọi của Trung Quốc và chữ « Trung Quốc – China » trong ngoặc đơn mà không có lời giải thích nào thì có thể dẫn đến hiểu lầm và diễn giải sai lệch.

NGS hứa là trong tương lai sẽ bổ xung giải thích trên các bản đồ khác hoặc Hội sẽ không ghi tên phía dưới quần đảo này.

Báo chí trong nước nhấn mạnh là Hội Địa Lý Quốc Gia Mỹ đã thừa nhận sai sót nhưng cho rằng các giải thích của Hội là chưa thỏa đáng. Việc chuyển từ chỗ chỉ ghi tên gọi Trung Quốc sang khả năng không ghi gì cả trên bản đồ đối với quần đảo Hoàng Sa là không thể chấp nhận được bởi vì Việt Nam có đầy đủ bằng chứng pháp lý và lịch sử để khẳng định chủ quyền của mình đối với quần đảo Hoàng Sa.

source

RFI Vietnamese

Wednesday, 10 March 2010

Mỹ hậu thuẫn cho 1 diễn đàn đa phương về tranh chấp biển Đông



Hình: AP

Cờ Trung Quốc tại biển Đông


Hoa Kỳ bày tỏ hậu thuẫn cho việc thông qua một diễn đàn đa phương để tìm kiếm một giải pháp cho vụ tranh chấp ở Biển Đông.

Lập trường này được Trợ lý Ngoại trưởng đặc trách Á Châu Thái Bình Dương, ông Kurt Campbell, trình bày tại cuộc họp báo ở Malaysia hôm thứ tư ngày 10 tháng 3 năm 2010.

Khi được hỏi là Hoa Kỳ có hậu thuẫn cho những nỗ lực của Việt Nam để thương lượng cho một giải pháp về vấn đề ở Biển Đông hay không, ông Campbell nói rằng “Lập trường của chúng tôi đối với những vấn đề này tồn tại từ lâu. Chúng tôi có những quyền lợi quan yếu về tự do hàng hải, tự do biển cả. Chúng tôi hoan nghênh sự cam kết của Trung Quốc hồi gần đây về việc chủ động giao tiếp trở lại trong vấn đề Bộ qui tắc Ứng xử (Code of Conduct). Quan điểm tổng quát của chúng tôi là chúng tôi nghĩ rằng tiến trình tốt nhất để giải quyết những vấn đề này là một khung cảnh đa phương, kể cả ASEAN như một thực thể thống nhất.”

Ông Campbell cho biết như thế trong lúc Trung Quốc tỏ ý phản đối điều mà họ gọi là mưu toan của Việt Nam nhằm “quốc tế hóa” vấn đề Biển Đông, nơi có tranh chấp chủ quyền giữa Trung Quốc, Việt Nam, Đài Loan, Philippines, Malaysia, và Brunei.

Nguồn: US State Department

source

VOA Vietnamese

Sunday, 21 February 2010

Ngàn Năm Nhìn Lại Thế Giới...Ngàn năm (...) đất Thăng Long...


February 19, 2010


NGUYỄN XUÂN NGHĨA/Việt Tribune

Giật mình nhớ chuyện ngàn năm cũ
Chiêm-Lạp xưa kia vốn chẳng hèn!...

Nhượng Tống Hoàng Phạm Trân đã viết như vậy – trước khi bị (...) ám sát. Bây giờ chúng ta lại giật mình nhớ tới ông vì Hà Nội chuẩn bị kỷ niệm Ngàn năm Thăng Long sau khi quyết định (...) Hoàng thành Thăng Long (...) tòa nhà Quốc hội được quảng cáo là hoành tráng vĩ đại!

Nói về “Ngàn năm Thăng Long”, ta nhớ đến Thái tổ Lý Công Uẩn và quyết định dời đô từ Hoa Lư lên La Thành… Nói đến nhà Lý, triều đại tồn tại liên tục 216 năm, chúng ta nhớ đến 70 năm loạn lạc trước đó, kể từ khi Ngô Quyền đánh bại quân Nam Hán rồi xưng vương năm 939… Sau hơn ngàn năm Bắc thuộc, nước Nam đã thành hình từ những biến cố ấy… cho đến ngày nay. Đó là nội dung bài viết trên cột báo này vào tuần trước…

Bây giờ, nhìn rộng ra ngoài, khi Thăng Long lên ngôi là Kinh đô Đại Việt thì các nước khác đang là gì, làm gì?...

Khi ấy, Hoa Kỳ chưa kịp đầu thai!

Khi ấy, Đế quốc La Mã đã tàn lụi tại Âu Châu và chỉ còn phân nửa miền Đông dưới tên là Đế quốc Byzantium. Byzantium hay Byzance là tên cũ của Constantinople, một kinh đô đông dân nhất nhì địa cầu vào thời cổ. Đế quốc tại Byzance này tiêu vong vào năm 1453 vì sự xuất hiện của Đế quốc Ottoman theo Hồi giáo tại Trung Đông, là chuyện về sau…

Múa rồng tại Hà Nội ngày 18 tháng 2, 2010 kỷ niệm lần 221 chiến thắng của Hoàng Đế Quang Trung. Hoàng Đình Nam/Getty Images

Vào thời nhà Lý của nước ta thì tại khu vực Âu Châu như ta nói hiện nay, Thiên chúa giáo là thế lực tôn giáo và chính trị có ảnh hưởng tỏa rộng. Nhưng chưa hẳn là có thực quyền vì còn bị các lãnh chúa địa phương vận dụng, lợi dụng và khai thác, để tranh đoạt quyền bính. Âu Châu vào thời gọi là “Hạ Trung Cổ”, từ thế kỷ thứ X tới thế kỷ XV, thật ra còn… man rợ.

Và chinh chiến là quy luật phổ biến. Nếu đem loạn “Thập nhị Sứ quân” của nước Nam mà nhân lên kích thước của cả một đại lục thì ta có tình hình Âu Châu vào đời Lý của mình.

Tại đây, thủ lãnh các tiểu vương quốc diệt nhau để tiến lên vị trí vương quốc – chứ chưa có thể nói đến “quốc gia” hay “đế quốc” như chúng ta hiểu sau này. Đồng thời, xung đột giữa các vương quốc ở phía Tây với thế lực Hồi giáo rất mạnh ở phía Đông đã mở ra nhiều đợt “Thập tự chinh” – tiến về Thánh địa Thiên chúa giáo ở Trung Đông. Với hậu thuẫn của Giáo hội La Mã và lời kêu gọi của Đế quốc Byzantinum (mảnh vụn còn lại của Đế quốc La Mã tại phía Đông), các lãnh chúa và vương quốc cùng phất cờ “Thánh chiến” để bảo vệ đạo pháp.

Thực tế có khi là nhân danh Giáo hội hay đức Giáo hoàng mà gia tăng quyền lực và ảnh hưởng của họ....

Tại Pháp, dòng Capétiens – do tên “tục” của vua Hugues Đệ nhất là Hugues “Capet” – là thế lực mạnh nhất. Chính thức tồn tại từ năm 987 đến sau cuộc Cách mạng Pháp (đến năm 1792, là khi Quang Trung thăng hà). Nói “mạnh nhất” nghĩa là tương đối thôi. Như vua Lý Thái Tổ của ta, từ khi lên ngôi, vua Hugues Capet này phải chật vật tiễu trừ và tiêu diệt các lãnh chúa địa phương, mà sau này ta cứ gọi là “phong kiến”. Cũng như nhà Lý, nhà Capet bắt đầu định chế hóa việc nối dõi để mỗi đời vua lên ngôi lại khỏi là một đợt can qua binh lửa hay đảo chánh trong triều….

Trong mấy trăm năm, trên cực điểm thì dòng Capet làm chủ được một lãnh thổ gần bằng phân nửa nước Pháp hiện nay – mà thôi. Thế lực đối nghịch đáng kể nhất là một vương quốc mới nổi ở bên kia bờ biển, mà sau này ta gọi là nước Anh. Như trong nhà Lý của Đại Việt, chinh chiến và hôn nhân là hai giải pháp bành trướng thế lực hay cầu hòa….

Tranh chấp giữa nhà Capet tại Pháp và nhà Plantagenêt tại Anh là một biến cố lớn và kéo dài…

Dù sao, vua Philippe August của nhà Capet – bậc hùng tài coi như mạnh nhất Âu châu vào thời suy vọng của nhà Lý ở nước ta – thì chỉ kiểm soát được một phần ba lãnh thổ Pháp. Cháu nội của ông là Louis IX phải hòa giải với nhà Plantagenêt và nương vào Giáo hội để khống chế được các vương hầu ở dưới. Ông được phong thánh nên sau này mới có tên là vua Saint Louis.

Bên kia biển Manche, khi dân ta đang giành lại quyền tự chủ thì nước Anh còn là một khu vực gồm bảy vương quốc. Tất nhiên là đánh nhau tưng bừng còn hơn Thập nhị Sứ quân!

Khi triều Lý củng cố được chế độ quân chủ đầu tiên của nước Nam, dân Normand trên đất Pháp tràn qua chiếm nước Anh. Đó là thành tích máu lửa của Quận công Guillaume le Conquérant – phải dùng tên Pháp vì là dân… Tây – vào năm 1066. Gọi là “công” vì ông chỉ là “duc” hay “duke” – còn dưới tước “vương” của nhà vua. Hãy nghĩ đến các ông vua chỉ ở hạng “công” như Tề Hoàn công hay Tấn Văn công, so với các Thiên tử Chu Bình vương, Chu Noãn vương thời Xuân Thu bên Tầu; hoặc các sứ quân Trần Minh công, Ngô Lãm công bị Vạn Thắng vương Đinh Bộ Lĩnh khuất phục… thì mình dễ nhớ tới sự khác biệt giữa “vương” và “công”!

Đâm ra, một dòng vua nửa Anh nửa Normand ra đời và cai trị toàn thể nước Anh cùng một phần lãnh thổ rất rộng của Pháp! Hãy tưởng tượng như các vua chúa Chiêm Thành vào Thăng Long và từ đó làm chủ nước Đại Việt vậy… Ngàn năm trước, chuyện ấy không xảy ra tại nước ta. Ngược lại là khác, như Nhượng Tống đã nhắc nhở.

Ông Guillaume này bị gọi là “Con Hoang” vì là con ngoại hôn của Quận công Robert le Magnifique – và có vài chục đứa con. Con cháu đời sau lập ra dòng Plantagenêt tại Anh và việc tranh đoạt quyền bính kéo dài giữa hai nước Anh Pháp. Tranh đoạt ấy dây dưa mãi và dẫn đến “Trận chiến Trăm năm” giữa hai nước, thực tế là 116 năm, mãi đến 1453 mới dứt.

Trong thời kỳ gọi là “Hạ Trung Cổ” – kéo dài từ sự ra đời của nhà Capet tại Pháp cho đến khi Đế quốc Byzance tan rã và thành phần ưu tú của họ chạy về Âu Châu để mở ra thời Phục Hưng năm 1453 – thì Âu Châu thật ra còn rất nghèo. Và lạc hậu. Các sử gia của họ gọi đó là “thời kỳ đen tối”. Chỉ sau thời Phục Hưng, Âu Châu mới thực sự lớn mạnh, rồi chinh phục toàn cầu.

Trong giai đoạn Hạ Trung Cổ ấy, về tư tưởng, văn hoá và giáo dục, thì Thiên chúa giáo là thế lực có ảnh hưởng nhất. Chiến tranh và sự tranh đoạt quyền bính giữa các lãnh chúa hay vương công là thực tế thường trực. Làng xã có phát triển dần thành các thị trấn, nhưng còn nhỏ hẹp. Và phải được bảo vệ bằng thành lũy. Thể thao là trò chơi nhằm trau giồi khả năng chiến trận, và một số tiến bộ khoa học thu lượm được là nhờ những va chạm và học hỏi với thế giới Hồi giáo. Ngoài tư tưởng Thiên chúa giáo và một số di sản văn hóa thời Hy Lạp La Mã, thì nhiều thành tựu khoa học kỹ thuật của cõi Âu Châu đó xuất phát từ Trung Đông…

Khi ấy, Âu Châu có nghe nói đến một đế quốc còn lớn hơn nữa, tại Viễn Đông. Đó là nhà Đại Tống mà mình sẽ tìm hiểu sau vì thật ra, đây là một triệu đại èo uột và duy nhất của Trung Quốc bị Đại Việt đánh cho tơi tả ngay trong lãnh thổ! Ăn Tết rồi và nhớ về “Ngàn năm Thăng Long” của mấy (...) thì nên nhớ lại những chuyện đó.

Để đừng có hèn nữa![NXN]

source

Viet Tribune Online

Wednesday, 25 November 2009

Biển Đông: Từ tranh chấp công khai tới quản lý xung đột



Để đạt mục tiêu kiềm chế các tranh chấp, các bên liên quan cần không được hài lòng chỉ với Tuyên bố về ứng xử tại Biển Đông của ASEAN - Trung Quốc - TS Nguyễn Hồng Thao và GS Ramses Ammer viết.

LTS: Từ 26-27/11, Hội thảo quốc tế về Biển Đông sẽ được Học viện Ngoại giao Việt Nam cùng Hội Luật sư Việt Nam phối hợp tổ chức, với sự tham gia của các học giả trong nước và quốc tế. Nhân dịp này, Tuần Việt Nam giới thiệu bài viết của TS Nguyễn Hồng Thao và GS. Ramses Ammer về vấn đề biển Đông và việc tìm kiếm một dàn xếp pháp lý mới cho vấn đề tranh chấp phức tạp, lâu dài này.

Phần 1: Từ tranh chấp công khai tới quản lý xung đột

Biển Đông từ lâu được xem là một trong những khu vực chính gây căng thẳng và bất ổn định tại Châu Á - Thái Bình Dương. Có nhiều nhân tố dẫn đến thực trạng đó. Thứ nhất, vị trí địa chiến lược của biển Đông. Thứ hai là những tranh chấp lãnh thổ đối với quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa cũng như các tranh chấp vùng biển tại biển Đông. Nhân tố thứ ba là cuộc chạy đua giành quyền kiểm soát các tài nguyên thiên nhiên trong vùng biển này. Nhân tố thứ tư là sự phát triển của Luật Biển.

(...)

Các tranh chấp về đảo trong biển Đông bao gồm cả hai bên, ba bên hoặc đa phương. Tình hình này cùng với các yêu sách chồng chéo đối với các vùng biển xung quanh quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa không thể giải quyết nếu không giải quyết câu hỏi về chủ quyền. Ngoài các tranh chấp có liên quan trực tiếp tới các yêu sách về chủ quyền đối với các nhóm đảo, còn các tranh chấp khác liên quan tới các vấn đề về vùng biển vẫn chưa được giải quyết.

Hơn nữa, vấn đề cướp biển và cướp có vũ trang đang tăng lên trong khu vực với khoảng một nửa số vụ cướp biển được ghi nhận trên thế giới xảy ra ở khu vực này.13

Các quốc gia ven biển cũng đang phải đương đầu với các vấn đề xuyên biên giới như ô nhiễm biển, quản lý các nguồn lợi hải sản.

Biển Đông tạo nên một trường đấu tranh cho các lợi ích an ninh. Việc tích cực tìm kiếm các giải pháp nhằm tránh các hoạt động quân sự là lợi ích của tất cả các bên tranh chấp và các bên có liên quan, nhằm bảo vệ quyền tự do hàng hải và thúc đẩy việc giải quyết hòa bình các tranh chấp cũng như thúc đẩy hợp tác.

Từ tranh chấp công khai tới quản lý xung đột

Làn sóng chiếm đảo

Làn sóng chiếm đóng các đảo bắt đầu từ giữa những năm 1950 sau khi Pháp rút khỏi Việt Nam. Việt Nam Cộng hòa chiếm phần phía tây của quần đảo Hoàng Sa trong khi Trung Quốc chiếm phần phía đông. Sau đó, năm 1974 Trung Quốc chiếm luôn cả phần phía tây bằng một chiến dịch quân sự đánh đuổi Việt Nam Cộng hòa.

Tại Trường Sa, vào đầu những năm 1970, Việt Nam Cộng hòa thực hiện yêu sách của mình bằng việc chiếm một số đảo - các đảo chiếm giữ này được chuyển sang cho nước Việt Nam thống nhất sau năm 1975. Philippines cũng tiến vào Trường Sa vào những năm cuối thập kỷ 1970s, trong khi Malaysia giành quyền kiểm soát một đảo lần đầu tiên vào năm 1983. Trung Quốc không giành được vị trí nào tại Trường Sa cho tới đầu năm 1988 sau một trận thủy chiến với Việt Nam tại khu vực này.

Mặc dù quan hệ Việt Nam - Trung Quốc đã bình thường hóa hoàn toàn vào tháng 11/1991, các tranh chấp trên biển Đông vẫn tạo nên nhiều căng thẳng trong phần lớn những năm 1990.

Được báo chí đề cập nhiều hơn cả là tranh chấp và căng thẳng nghiêm trọng giữa Trung Quốc và Philippines sau khi Trung Quốc chiếm dải Vành Khăn vào năm 1995.

Các bên tuyên bố chủ quyền đều có những động thái để củng cố và duy trì yêu sách của mình. Năm 1978 Philippines tuyên bố các giới hạn của KIG. Malaysia đưa ra bản đồ thể hiện các yêu sách của mình về lãnh hải và thềm lục địa năm 1979. Như đã nêu ở trên, Việt Nam tuyên bố vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý và thềm lục địa bằng tuyên bố của Chính phủ năm 1977.

Xung đột hải quân giữa Việt Nam và Trung Quốc năm 1988 tại Trường Sa làm dấy lên lo ngại giữa các quốc gia ASEAN rằng tình hình biển Đông có thể sẽ trở thành mối đe dọa đối với an ninh khu vực.

Nỗ lực kiểm soát tình hình

Nỗ lực khu vực đầu tiên nhằm kiểm soát tình hình là sáng kiến của Indonesia và Canada tổ chức Hội thảo đầu tiên về quản lý các xung đột tiềm tàng tại biển Đông vào năm 1990. Hội thảo này là một tiến trình không chính thức nhằm tạo dựng một diễn đàn cho các thảo luận có tính định hướng chính sách và các hợp tác tiềm năng. Đây được coi là một trong những Biện pháp Xây dựng Lòng tin trong khu vực.

Các nước ASEAN, Việt Nam, Trung Quốc và Đài Loan cử người tham gia Hội thảo trên cơ sở không chính thức của kênh hai. Hội thảo kết thúc với các tuyên bố nhấn mạnh sự cần thiết giải quyết các tranh chấp biển Đông thông qua các biện pháp hòa bình, các bên không được sử dụng vũ lực trong tranh chấp và các bên cần kiềm chế không làm phức tạp thêm tình hình.14

Nỗ lực thứ hai của khu vực là Tuyên bố ASEAN năm 1992 về biển Đông. Tuyên bố nhấn mạnh " sự cần thiết giải quyết mọi vấn đề chủ quyền và quyền tài phán liên quan tới biển Đông bằng các biện pháp hòa bình, không sử dụng vũ lực". Bản tuyên bố yêu cầu "các bên liên quan kiềm chế với mục tiêu thiết lập một môi trường tích cực cho một giải pháp cuối cùng cho tất cả các bên".15

Trong thời kỳ này, UNCLOS vẫn chưa có hiệu lực và một số nước có yêu sách chủ quyền vẫn chưa phê chuẩn công ước này. Các nước yêu sách cũng tiếp tục thực hiện và áp dụng UNCLOS theo cách có lợi cho quyền lợi của mình và trong một số trường hợp mâu thuẫn với tinh thần giải quyết cả gói của UNCLOS. Có thể nói rằng hệ thống các giải pháp hòa bình cho các tranh chấp được nêu trong phần 15 của UNCLOS vẫn chưa được thực thi.

Tàu tuần tra của Trung Quốc ở Biển Đông.
Sự kiện Vành Khăn năm 1995 được coi là một sự cảnh báo đối với các nước trong khu vực rằng họ phải tự có những sáng kiến của mình để ngăn chặn các tranh chấp biển trong khu vực biển Đông leo thang trở thành các vụ đụng độ. Nếu họ không làm điều đó, tình hình có thể xấu đi và hòa bình ổn định sẽ bị đe dọa nghiêm trọng. Theo đó, ASEAN cần tăng cường các biện pháp xây dựng lòng tin để ứng phó với tình hình tại Biển Đông.

Tiến trình Hội thảo nhằm quản lý các xung đột tiềm tàng trên biển Đông đã gần như hoàn thành vai trò lịch sử của mình và được thay thế bằng các cuộc thương thảo song phương. Sau sự kiện Vành Khăn, ASEAN ra Tuyên bố 1995 của các Ngoại trưởng ASEAN về những phát triển gần đây tại Biển Đông nhấn mạnh rằng các bên liên quan phải áp dụng các nguyên tắc có trong Hiệp ước thân thiện và hợp tác tại Đông Nam Á (TAC) như là cơ sở xây dựng quy tắc ứng xử quốc tế tại biển Đông vì mục tiêu xây dựng một không khí an ninh và ổn định trong khu vực.

Các cuộc đàm phán song phương riêng rẽ giữa Trung Quốc và Philippines và giữa Philippines và Việt Nam đã cho ra đời hai bộ quy tắc ứng xử - một bộ Quy tắc ứng xử gồm tám điểm trong Tuyên bố chung giữa Cộng hòa Philippines và Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa về Tham vấn về biển Đông và các khu vực hợp tác khác tháng 8/1995 và bộ quy tắc ứng xử 9 điểm trong Tuyên bố chung của cuộc gặp tham vấn song phương hàng năm lần thứ 4 giữa Philippines và Việt Nam tháng 10/1995.16

Việc Việt Nam gia nhập ASEAN năm 1995 đã thúc đẩy tổ chức này trở nên tích cực hơn trước tình hình biển Đông. Dưới chiếc ô của tổ chức này, Bộ quy tắc ứng xử ASEAN do Philippines và Việt Nam chuẩn bị đã được thông qua và được chuyển cho Trung Quốc năm 1999.

Bộ quy tắc ứng xử ASEAN dựa trên các tài liệu của ASEAN, thí dụ như: 5 nguyên tắc cùng tồn tại hòa bình, TAC, Tuyên bố của ASEAN về biển Đông 1992, Tuyên bố chung ASEAN - Trung Quốc 16/12/1997; Tuyên bố chung Philippines - Trung Quốc về biển Đông và các khu vực hợp tác khác tháng 8/1995; bộ quy tắc ứng xử thỏa thuận giữa Philippines và Việt Nam tháng 11/1995; và kế hoạch hành động Hà Nội thông qua tại Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 6 năm 1998.17

Lúc đầu, ý tưởng về một bộ quy tắc ứng xử ASEAN - Trung Quốc đã bị Bắc Kinh gạt bỏ. Đối thoại ASEAN - Trung Quốc dẫn tới sự hiểu biết về sự cần thiết phải có một bộ quy tắc ứng xử có tính khu vực trong tương lai. Tuy nhiên, trong tương lai gần, một giải pháp thỏa hiệp về một văn bản chung với các điều khoản ít có tính ràng buộc hơn có thể dễ được các bên chấp nhận hơn.

Trong Hội nghị cấp cao ASEAN tại Phnompênh - Campuchia, ASEAN và Trung Quốc đã thông qua "Tuyên bố về ứng xứ của các bên tại Biển Đông" (ASEAN - Trung Quốc DOC).18 Đây là văn bản chính trị đầu tiên liên quan tới biển Đông được thông qua giữa ASEAN và Trung Quốc. ASEAN - Trung Quốc DOC là bước đi cần thiết trong một tiến trình dài hơn nhằm xây dựng và thống nhất về một "bộ quy tắc ứng xử" tại biển Đông.

ASEAN - Trung Quốc DOC là một khung ứng xử cho các bên, thành viên của ASEAN, trực tiếp hoặc gián tiếp liên quan tới các tranh chấp, và Trung Quốc, nhằm tránh các hoạt động quân sự và thúc đẩy việc thực hiện các biện pháp xây dựng lòng tin trong các lĩnh vực ít nhạy cảm hơn và tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau giữa ASEAN và Trung Quốc. Các bên có liên quan có thể thăm dò và thực hiện các hoạt động hợp tác trên các lĩnh vực bảo vệ môi trường biển, các hoạt động nghiên cứu biển; an toàn hàng hải và thông tin trên biển; các hoạt động tìm kiếm và cứu trợ; và chống tội phạm xuyên quốc gia, bao gồm nhưng không chỉ riêng buôn lậu ma tuý, cướp biển và cướp có vũ trang trên biển, và buôn lậu vũ khí.

Các cuộc đàm phán song phương riêng rẽ giữa Trung Quốc và Việt Nam, Malaysia và Việt Nam, Thái Lan và Việt Nam, Indonesia và Việt Nam đã đưa tới những kết quả tích cực trong việc giải quyết các vùng biển chồng lấn giữa các nước phù hợp với UNCLOS.

Ngày 5/6/1992, Malaysia và Việt Nam ký thỏa thuận về khai thác chung triển tại các khu vực chồng lấn trên khu vực thềm lục địa phía tây nam Việt Nam và vùng biển phía đông - bắc - đông ngoài khơi bờ biển phía đông của bán đảo Malaysia trong vịnh Thái Lan.19

Ngày 9/8/1997, Thái Lan và Việt Nam đạt được thỏa thuận xác định thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế trong vịnh Thái Lan.20

Ngày 11/6/2003, Việt Nam và Indonesia ký thỏa thuận về xác định ranh giới thềm lục địa trên khu vực phía bắc đảo Natuna.

Hai thỏa thuận khác cũng đáng được ghi nhận là hai thỏa thuận giữa Việt Nam và Trung Quốc liên quan tới vịnh Bắc bộ ký ngày 25/12/2000. Hiệp định về phân định lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa trong vịnh Bắc bộ - giải quyết các tranh chấp biên giới biển trong vùng Vịnh với những hiệu lực hợp lý dành cho các đảo trong phân định.21 Hiệp định về hợp tác đánh cá trong vùng Vịnh Bắc bộ đã thiết lập được một "khu vực đánh cá chung", "một vùng đệm" cho các tàu thuyền đánh cá nhỏ và "vùng đánh cá tạm thời" trong 4 năm.22

Những thỏa thuận đạt được giữa Việt Nam và các nước láng giềng liên quan đến quản lý và phân định các vùng biển chồng lấn đã góp phần làm rõ các điều khoản tương ứng trong UNCLOS trong việc giải quyết các tranh chấp biển.

ASEAN - Trung Quốc DOC và UNCLOS cũng được coi là cơ sở pháp lý cho Hiệp định 3 bên về các khảo sát địa chấn biển chung trong khu vực xác định trên biển Đông (JSMU) được ký ngày 14/3/2005 giữa các công ty dầu khí quốc gia của Trung Quốc, Philippines và Việt Nam. Hiệp định cho thấy quyết tâm của các bên có liên quan trong việc tuân thủ ASEAN - Trung Quốc DOC. Tất cả các hoạt động trong khu vực đều cần tham khảo ý kiến các bên liên quan.

Hiệp định 3 bên bao gồm ba năm tiến hành đo địa chấn và nghiên cứu trên một khu vực rộng 143 ngàn km vuông trên biển Đông, bao gồm cả một phần quần đảo Trường Sa còn đang tranh chấp. Ba công ty dầu khí quốc gia cùng nhau chia sẻ các chi phí liên quan tới nghiên cứu địa chấn trong khu vực thỏa thuận, lên tới khoảng 7,14 triệu đô la trong thời gian 3 năm.23

Tổng thống Philippines Gloria Arroyo gọi hiệp định ba bên này là "một sự kiện lịch sử", "một bước đột phá" trong việc thực hiện các điều khoản của ASEAN - Trung Quốc DOC. Việc ký kết hiệp định "không làm tổn hại đến lập trường của mỗi bên đối với vấn đề biển Đông". Các bên bày tỏ "quyết tâm biến biển Đông thành một khu vực hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển".24

Sự hợp tác của 3 công ty dầu khí quốc gia nằm trong khuôn khổ các nghiên cứu khoa học biển và không bao gồm bất kỳ một sự dàn xếp nào liên quan tới việc khai thác tài nguyên của khu vực.

Chương trình nghiên cứu khoa học biển chung tại biển Đông (JOMSRE-SCS) là một thí dụ khác về sự hợp tác theo tinh thần của ASEAN - Trung Quốc DOC. Sáng kiến này được khởi xướng theo thỏa thuận năm 1994 giữa Tổng thống Philippines lúc đó là Fidel V. Ramos và Chủ tịch nước Việt Nam Lê Đức Anh về hợp tác trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học biển và bảo vệ môi trường trên biển Đông.

Từ năm 1996, đã có 4 đợt hoạt động: tháng 4/1996, tháng 5/2000, tháng 4/2005 và tháng 4/2007. Các bên tham gia các đợt hoạt động nghiên cứu ngày càng mở rộng, không chỉ bao gồm Phillippines, Việt Nam, Trung Quốc mà còn các thành viên bên ngoài khác, trong đó có Mỹ và Canada với tư cách quan sát viên.25

Nhiều tuyến đường hàng hải quan trọng đi qua biển Đông.
Việc thiết lập đường dây nóng, việc tổ chức tuần tra chung, việc tham gia vào các hoạt động chống cướp biển và xây dựng cơ chế đối thoại an ninh là các bằng chứng của thái độ tự kiềm chế của các bên trong việc gìn giữ hòa bình và ổn định tại khu vực theo tinh thần ASEAN-Trung Quốc DOC.

ASEAN - Trung Quốc DOC cũng đóng vai trò kiềm chế. Theo DOC, các bên có liên quan phải cho thấy thái độ tự kiềm chế khi thực hiện các hoạt động có thể gây nên hoặc làm phức tạp thêm các tranh chấp và làm ảnh hưởng đến hòa bình và ổn định, trong đó bao gồm: các hoạt động đưa người đến ở trên những đảo, bãi đá nửa nổi nửa chìm hiện không có người sinh sống. Thêm vào đó, các bên có liên quan cần giải quyết tranh chấp theo một cách xây dựng.

Tuy nhiên, các điều khoản của ASEAN - Trung Quốc DOC chưa đưa ra được câu trả lời rõ ràng cho các vấn đề như các loại hoạt động nào có thể bị coi là làm phức tạp hoặc làm phức tạp thêm các tranh chấp.

Do vậy, các nước có yêu sách theo đuổi các hoạt động như "các hành động dân sự với các mục tiêu quân sự" tại quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa, từ các hoạt động như nghiên cứu, du lịch, mời thầu và đấu thầu các lô dầu khí, đặt mốc chủ quyền, cấm đánh cá, xây dựng đường bay, tới các đài giám sát chim và xây dựng hoặc củng cố các cơ sở đã có tại các phần đảo đã chiếm đóng.26

Cho đến hết năm 2008, các dự án hợp tác trong khuôn khổ ASEAN - Trung Quốc DOC chỉ mới tồn tại trên giấy. Lý do là có sự thiếu hụt tài trợ tài chính và sự nhiệt tình của các bên liên quan. Các điều khoản không rõ ràng của DOC cũng làm cho tình hình thêm phức tạp.

Để đạt được mục tiêu kiềm chế các tranh chấp, các bên có liên quan cần không được hài lòng chỉ với ASEAN - Trung Quốc DOC. Họ cần phát triển thêm các chủ trương mới cho việc triển khai DOC và thúc đẩy nó lên một mức cao hơn nhằm đạt được một bộ quy tắc ứng xử ASEAN - Trung Quốc tại biển Đông.

Tình hình gần đây dường như đòi hỏi những nỗ lực mới nhằm thiết lập một thể chế pháp lý mới phù hợp cho hợp tác giữa các bên có liên quan tại biển Đông27.

**************

source

http://www.tuanvietnam.net/2009-10-18-bien-dong-tu-tranh-chap-cong-khai-toi-quan-ly-xung-dot