Showing posts with label Châu Âu. Show all posts
Showing posts with label Châu Âu. Show all posts

Saturday, 18 February 2012

Tổng thống Ðức từ chức trong vụ tai tiếng tài chánh


Tổng thống Ðức từ chức trong vụ tai tiếng tài chánh
Friday, February 17, 2012 5:38:40 PM



BERLIN (NYT) -
Tổng thống Ðức, ông Christian Wulff, hôm Thứ Sáu loan báo quyết định từ chức sau khi các công tố viên yêu cầu Quốc Hội tước bỏ quyền đặc miễn truy tố của ông, do các cáo buộc có mối quan hệ không minh bạch với giới doanh gia.

Hình nhân Tổng Thống Ðức Christian Wulff bị ghi chữ “K.O.” (đo ván) tại Mainz, Ðức, hôm Thứ Sáu, sau khi có tin ông này từ chức. (Hình: AP Photo/Michael Probst)

Ông Wuff tuyên bố với báo chí tại điện Bellevue Palace rằng ông từ chức vì nước Ðức cần có một tổng thống được sự tín nhiệm của toàn thể dân chúng. Ông cho rằng những gì xảy ra trong thời gian qua đã có ảnh hưởng xấu đến sự tín nhiệm này.

Việc ông Wuff từ chức đã chấm dứt các tiết lộ gây xôn xao dư luận Ðức như các cuộc nghỉ hè với thành phần doanh gia giàu có và một loạt những vụ tặng quà, giúp đỡ tài chánh, có thể không phạm luật nhưng dễ gây đàm tiếu.

Vụ tai tiếng này đã tạo thêm vấn đề nhức đầu cho Thủ Tướng Angela Merkel và chính phủ của bà trong lúc có cuộc khủng hoảng của khối dùng đồng Euro.

Trong khi ông Wuff chuẩn bị tuyên bố từ chức, có tin cho hay bà Merkel phải hủy chuyến đi đến Rome hôm Thứ Sáu để gặp Thủ Tướng Ý Mario Monti trước cuộc họp của các bộ trưởng tài chánh Âu Châu ngày Thứ Hai ở Brussels.

Ông Wuff là tổng thống thứ nhì liên tiếp của Ðức phải từ chức sớm hơn dự liệu.

Người tiền nhiệm của ông Wuff, Horst Kohler, từ chức sau khi có phản đối về phát biểu của ông liên quan đến vai trò của quân đội Ðức trong việc bảo vệ quyền lợi kinh tế quốc gia.

Các công tố viên Ðức hôm Thứ Năm yêu cầu Quốc Hội Ðức tước quyền miễn tố của ông Wuff vì “có các bằng chứng cho thấy có mối liên hệ không chính đáng với giới doanh gia”.

Vụ này bùng ra hồi Tháng Mười Hai năm ngoái khi có tin cho hay ông Wuff khi còn là thống đốc tiểu bang Lower Saxony, đã nhận được số tiền cho vay là $650,000 với lãi suất thấp từ vợ của một người bạn giàu có mà không tiết lộ khi được đề cử làm tổng thống. (V.Giang)

source

Nguoi-Viet Online

Sunday, 28 November 2010

Quốc Hội Nga nhìn nhận: chính Stalin đã ra lệnh trong vụ thảm sát Katyn


Quốc Hội Nga nhìn nhận: chính Stalin đã ra lệnh trong vụ thảm sát Katyn
Đào Nguyên source AP, Nov 26, 2010
Một góc nghĩa trang nơi tưởng niệm những người Ba Lan bị giết năm 1940. Photo courtesy: AFP
Một góc nghĩa trang nơi tưởng niệm những người Ba Lan
bị giết năm 1940. Photo courtesy: AFP

Cali Today News - Thứ sáu 26/11 Hạ Viện Nga đã nhìn nhận chính Joseph Stalin đã ra lệnh tàn sát nhiều ngàn người Ba Lan trong vụ thảm sát Katyn trong thời đệ Nhị Thế Chiến.

Vụ này diễn ra vào năm 1940 khi có khoảng 20,000 sĩ quan Ba Lan và nhiều người khác đã bị mật vụ của Stalin giết ở phía tây Nga.

Vụ thảm sát này trong một thời gian dài vẫn là nguyên nhân gây căng thẳng trong quan hệ ngoại giao giữa Nga và Ba Lan. Đầu tháng 12 năm nay TT Nga D.Medvedev sẽ đi thăm Ba Lan.

Truyền thông Nga trước đây vẫn cứ đổ cho phát xít Đức gây ra cuộc thảm sát. Thông báo của Hạ Viện Nga cho hay chính lực lượng NKVD tức cảnh sát mật của Stalin đã thực hiện cuộc tàn sát này.

Các quan sát viên cho là hành động của Viện Duma của Nga là cử chỉ muốn cắt đứt toàn bộ liên hệ giữa chính phủ Nga hiện nay với các ràng buộc với những gì thuộc Liên Bang Xô Viết trước đây.

Konstantin Kosachev, Chủ Tịch Ủy Ban Đối Ngoại Viện Duma, tuyên bố: “Văn kiện lịch sử hôm nay không chỉ quan trọng đối với mối quan hệ Ba Lan-Nga nhưng nó còn quan trọng hơn đối với người Nga chúng tôi”

Đào Nguyên source AP

source

Calitoday

Friday, 8 October 2010

Giải Nobel Hòa bình cho Lưu Hiểu Ba : Một vố đau cho chính quyền Trung Quốc

TRUNG QUỐC -
Bài đăng : Thứ sáu 08 Tháng Mười 2010 - Sửa đổi lần cuối Thứ sáu 08 Tháng Mười 2010

Giải Nobel Hòa bình cho Lưu Hiểu Ba : Một vố đau cho chính quyền Trung Quốc
Những người biểu tình giơ cao biểu ngữ trước Bộ Ngoại giao Trung Quốc ở Hồng Kông ngày 8/10/2010 đòi trả tự do cho nhà ly khai Lưu Hiểu Ba, vừa đoạt giải Nobel Hòa bình hôm nay.
Những người biểu tình giơ cao biểu ngữ trước Bộ Ngoại giao Trung Quốc ở Hồng Kông ngày 8/10/2010 đòi trả tự do cho nhà ly khai Lưu Hiểu Ba, vừa đoạt giải Nobel Hòa bình hôm nay.
Reuters
Trọng Nghĩa

Sáng nay 08/10/2010, vài giờ trước lúc danh tánh người nhận giải Nobel Hòa bình 2010 được công bố, chủ tịch Ủy ban Nobel của Na Uy đã xác nhận là quyết định của Ủy ban chắc chắn sẽ gây ra tranh cãi. Quả đúng là như vậy. Khi tên tuổi nhà ly khai Trung Quốc Lưu Hiểu Ba là người được giải Nobel Hòa bình được công bố vào đúng 9 giờ GMT, sự kiện đã lập tức gây chấn động trong dư luận do tính chất bạo dạn của nó.

Quốc gia bị chấn động nhiều nhất có lẽ là Trung Quốc, vì trong những tháng qua, chính quyền Bắc Kinh đã không ngừng gây sức ép trên Oslo để ngăn cản việc trao giải Nobel Hòa bình cho ông Lưu Hiểu Ba. Chỉ ít lâu sau khi danh tánh giải Nobel Hòa bình 2010 được loan báo, bộ Ngoại giao Trung Quốc có phản ứng rất gay gắt đối với Ủy ban Nobel Hòa bình và đối với chính quyền Na Uy.

Theo phát ngôn viên bộ Ngoại giao Trung Quốc Mã Triêu Húc, thì Ủy ban Nobel Hòa bình đã vi phạm và thóa mạ tinh thần của giải thưởng này, vốn phát huy quan hệ hài hòa giữa các dân tộc cũng tình hữu nghị quốc tế. Đối với với phía Trung Quốc, Lưu Hiểu Ba là một tội phạm đã bị kết án tù vì đã vi phạm luật lệ quốc gia. Các hành động này của ông Lưu Hiểu Ba , theo Bắc Kinh, hoàn toàn đi ngược lại mục tiêu của giải Nobel Hòa bình.

Ngoài ra, phát ngôn viên bộ Ngoại giao Trung Quốc còn lên tiếng đe dọa chính quyền Na Uy khi cho rằng việc trao giải cho ông Lưu Hiểu Ba sẽ gây tổn hại cho quan hệ song phương Trung Quốc – Na Uy. Tuyên bố dọa nạt chính quyền Oslo này đã lập lại luận điệu mà nhiều quan chức ngoại giao Trung Quốc từng đưa ra trong thời gian qua để gây áp lực.

Như tin chúng tôi đã loan, gần đây, thư ký Ủy ban Nobel Hòa bình ông Geir Lundestad đã tiết lộ là ngay từ tháng sáu vừa qua, nhân một chuyến công du Na Uy, một quan chức ngoại giao Trung Quốc cao cấp đã gặp đại diện Ủy ban Nobel và tuyên bố rằng việc trao giải thưởng cho một nhà ly khai là « một hành động không hữu nghị, có thể gây ra những hậu quả tiêu cực cho quan hệ giữa Na Uy và Trung Quốc ».

Theo hãng AFP, khi đe dọa như trên, Trung Quốc đã nhắm vào việc chính phủ Oslo đang mong muốn ký kết được với Bắc Kinh càng sớm càng tốt một thỏa thuận tự do mậu dịch song phương. Thế nhưng, Bắc Kinh đã quên đi một điều là trên nguyên tắc, Ủy ban Nobel là một định chế độc lập, không chịu áp lực của chính quyền khi ra các quyết định.

Chủ trương của Trung Quốc dùng sức ép chinh trị và kinh tế để ngăn không cho một công dân của mình đươc giải Nobel Hòa bình như vậy đã hoàn toàn thất bại trước quyết định độc lập của Ủy ban Nobel vào hôm nay. Và đây quả là một vố đau cho chính quyền Bắc Kinh, vốn không muốn thế giới chú mục vào vấn đề thiếu vắng dân chủ và nhân quyền mà nhà ly khai Lưu Hiểu Ba đã luôn luôn tố cáo.

Ngay sau khi có thông tin về việc ông Lưu Hiểu Ba được trao giải thưởng cao quý này, hai tổ chức bảo vệ nhân quyền hàng đầu thế giới là Ân xá Quốc tế, trụ sở ở Luân Đôn, và Human Rights Watch, trụ sở ở New York đã lập tức lên tiếng hoan nghênh sự kiện này, đồng thời lên tiếng kêu gọi Bắc Kinh trả tự do cho nhà ly khai, cũng như tất cả các tù nhân vì chính kiến khác.

Đói với hai tổ chức này, giải Nobel Hòa bình về tay ông Lưu Hiểu Ba là một hậu thuẫn quý giá cho tất cả các nhà ly khai Trung Quốc. Tuy nhiên, không chỉ có các tổ chức bảo vệ nhân quyền là có phản ứng như trên. Nhiều chính phủ và chính khách tên tuổi trên thế giới cũng lên tiếng hoan nghênh quyết định của Ủy ban Nobel Hòa bình năm nay.

Ngoại trưởng Pháp Bernard Kouchner còn kêu gọi Trung Quốc trả tự do cho ông Lưu Hiểu Ba , một yêu cầu cũng được phát ngôn viên chính phủ Đức Steffen Seibert đưa ra. Riêng thủ tướng Na Uy, nước bị Trung Quốc đe dọa nhiều nhất trong vụ này cũng lên tiếng chúc mừng nhà ly khai Lưu Hiểu Ba, vài phút sau khi ông được tuyên bố nhận giải.

Giới phân tích ghi nhận : Đây không phải là lần đầu tiên mà Bắc Kinh bị Ủy ban Nobel Hòa bình giáng cho một vố đau. Lần trước đây là vào năm 1989, khi giải Nobel Hòa bình được trao cho lãnh tụ tinh thần người Tây Tạng là Đức Đạt Lai Lạt Ma, bất chấp các thủ đoạn ngăn chặn của Trung Quốc.

Thế nhưng lần này, thất bại của Trung Quốc còn đau đớn hơn. Theo chuyên gia Pháp Jean Philippe Béja, giám đốc nghiên cứu tại Trung tâm Nghiên cứu Khoa học Pháp CNRS/CERI, thì vào năm 1989, Bắc Kinh còn bị cô lập sau vụ thảm sát Thiên An Môn vào tháng 6, đo đó không có nhiều uy thế trên trường quốc tế. Thẽ nhưng hiện nay, tình hình đã hoàn toàn khác. Từ sau cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính, hầu hết các quốc gia phương Tây đều tìm cách chiều chuộng Trung Quốc.

Trả lời phỏng vấn của AFP, chuyên gia Pháp cho rằng cho dù Trung Quốc ngày ngày càng hùng mạnh, thế nhưng, nếu họ muốn đóng một vai trò quan trọng trên trường quốc tế thì họ phải « tuân thủ các giá trị phổ quát và tôn trọng quyền tự do ngôn luận ».

source

RFI Vietnamese

Friday, 2 July 2010

Khi Người Rơm là phụ nữ



Khu lều trại ở Calais

Vào một ngày nắng ấm cuối xuân, chúng tôi đã tiếp cận được 2 người rơm tại công viên Villemin quận 10 Paris. Đó là hai phụ nữ còn rất trẻ, dưới 20 tuổi và khá xinh. Nhưng đấy là những điều chúng tôi ghi nhận được sau khi đã tiếp xúc, chuyện trò. Còn ấn tượng ban đầu khi nhìn thấy họ thì hoàn toàn khác hẳn.

Họ đi đứng xiêu vẹo, quần áo tả tơi hoàn toàn giống hình ảnh của những người bù nhìn bằng rơm được sử dụng lâu ngày trên cánh đồng. Mặt mũi đầu tóc xơ xác bơ phờ. Họ đói và hôi. Mùi hôi của họ thật khủng khiếp đấm thẳng vào mũi chúng tôi.

Em Tr, 17 tuổi, cho chúng tôi biết các em từ một nơi gần thủ đô Prague của Czech, được đưa đến công viên Villemin này cả tuần nay, và các em uống nước lã cầm hơi là chính. T, 19 tuổi, với vẻ lúng túng, ngại ngần khi nhìn thấy được phản ứng tự nhiên của tôi, em cho biết đã 10 ngày nay các em chưa hề được tắm rửa mà một trong hai em lại đang trong chu kỳ kinh nguyệt của phụ nữ.

Khi tôi tỏ ý ái ngại khả năng các em sẽ mắc phải bệnh viêm nhiễm phụ khoa, em T cho biết vì đi theo đường bộ từ Trung Quốc sang nên có những lần cả nửa tháng các em không tắm gội, không làm vệ sinh ngay cả "trong những ngày ấy" và vẫn phải "đóng thuế" bằng thân xác trải dài qua những lộ trình "đường cỏ" cho các tay chăn dắt đường dây và các thành phần khác. "Kinh khủng lắm ạ, ban đầu em còn không chịu nổi mùi hôi hám từ chính cơ thể của em, nhưng rồi cũng phải cố mà quen thôi," T nói.

Hôm ấy, các em đang đợi người trong đường dây đưa đến một địa điểm gần cảng Calais chờ cơ hội để "nhảy bãi", tức là bám trên những chiếc xe tải chở containner để trốn sang Anh Quốc.

Vào rừng

Gặp và nghe những chuyện của hai em Tr và T, chúng tôi quyết định trở lại các cánh rừng quanh cảng Calais một lần nữa.

Một người phụ nữ Việt Nam trên đường vượt biên qua đất Pháp

Phụ nữ trên đường vượt biên phải đối mặt với nhiều nỗi tủi nhục

Một góc rừng Grande Synthe, đây là khu rừng gần nhất dẫn đến cảng Calais, cách cảng khoảng 40 km nên có rất nhiều khu vực trong rừng bị các nhóm người rơm chiếm đóng.

Vẫn những lều trại tạm bợ, nhếch nhác, nhưng lớp người cũ của lần trước không còn một ai. Số người lần này có ít hơn, và cũng "trẻ hóa" hơn nhiều. Tất cả cùng đang tìm cơ hội trốn được đến nước Anh "lao động" với giấc mơ có vài nghìn bảng gửi về nhà mỗi tháng, đầu tiên là để chuộc lại những quyển sổ đỏ đang thế chấp ở ngân hàng, sau đấy sẽ là một cuộc đổi đời cho cả dòng họ.

H, một phụ nữ Hà Tây 35 tuổi để lại chồng và 2 con, từ Cộng hòa Czech đến cánh rừng Grande Synthe này được khoảng 1 tháng. Cô cho biết tuy vấn đề thực phẩm và vệ sinh cá nhân tương đối ổn thỏa nhờ vào trợ giúp nhân đạo của các tổ chức từ thiện địa phương, nhưng là phụ nữ, H thường xuyên phải đối mặt với những cơn khủng hoảng vì bị bắt buộc phải quan hệ thân xác với những gã thanh niên có gốc Trung Đông, Nam Á vá một số nước cộng hòa thuộc Liên Xô cũ đang có mặt trong rừng.

Khi tôi hỏi tại sao những người trong nhóm không bảo vệ cho nhau, H nói: "Chúng nó rất hung dữ, nơi rừng rú này mạnh ai nấy lo thân, em mà chống cự lại thì đến xác cũng không còn".

Theo chúng tôi được biết, những thanh niên hung dữ nói trên thuộc thành phần bất hảo vô nghề nghiệp có gia đình sinh sống tại Pháp, thậm chí có những kẻ đến từ Anh. Chúng tụ tập thành từng nhóm lập lều trại ở bất cứ nơi nào có người rơm Việt Nam tập trung với mục đích "xin đểu" tất cả những gì có thể "xin" được của những người rơm này, từ thực phẩm, quần áo đến cả thân xác của người rơm phụ nữ.

Vừa "xin đểu", những thanh niên này vừa chi phối và kiểm soát tất cả các hoạt động của các nhóm người rơm theo những mệnh lệnh bí mật nào đấy từ các tay chăn dắt đường dây người rơm.

Nhà báo Huỳnh Tâm và ba người rơm

Hết nhóm này đi lại đến nhóm khác tới

Cũng như lần trước, tiếp xúc với nhóm 5 người rơm chưa đầy 15 phút, chúng tôi liền bị một đám thanh niên gốc Trung Đông và Nam Á bao vây đe dọa và hành hung "nhè nhẹ". Khi đám thanh niên này ngang nhiên có những hành động rất sỗ sàng với cả một phụ nữ đứng tuổi như tôi giữa ban ngày, tôi nhìn H và thấy một đôi mắt đầy vẻ chịu đựng và sợ hãi, đôi mắt cho tôi biết những nỗi đau mà H phải trải qua trong những ngày đi tìm miền đất mơ.

Rời Grande Synthe, chúng tôi đến rừng Tétéghem, cách cảng Calais khoảng 50 km về phía Đông Nam và gặp được C, một nữ người rơm gốc Thanh Hóa 22 tuổi, mới thử sức "nhảy bãi" lần đầu tối hôm trước thất bại vừa quay về trại. Sau ít phút chuyện trò với chúng tôi, em bức xúc kể: "Cháu bám trên mui bạt xe tải, khi xe chạy cháu mới thật sự thấy tai nạn có thể xảy ra bất cứ lúc nào, mà tai nạn có nghĩa là chết, thậm chí là chết không toàn thây".

Thủ đô Paris

Một chặng dừng chân của người rơm Việt Nam ở Paris

Khoảng 18 giờ, chia tay các em mà không biết phải chúc các em điều gì. Khi ra đến bìa rừng, chúng tôi gặp một đôi nam nữ mới được "xuống hàng" đang dò tìm đường vào lán trại. Những thanh niên gốc Trung Đông đang lượn lờ quanh đấy không thèm che giấu cái nhìn thèm thuồng trước con mồi mới. Tôi chợt nhớ đến chuyện một phiên dịch viên từ thiện kể về những phụ nữ lỡ có thai bất đắc dĩ trên con đường đi làm người rơm đã phải khốn đốn như thế nào để giải quyết bào thai đó, có khi nguy hiểm đến tính mạng.

Chặng về chúng tôi ghé qua rừng Angre, một khu rừng cách cảng Calais 50 km và gần Paris nhất (hơn 160 km). Có lẽ do phải bất đắc dĩ đón tiếp sự quan tâm của nhiều nhóm truyền thông Pháp cũng như quốc tế nên lán trại chỗ này đã được giải tán. Được biết hiện tại, trại đã được "ai đó" dời sang góc khác của khu rừng, kín đáo hơn nhiều.

Nơi đặt trại trước đây chỉ còn lại vài dấu tích của bếp lò dã chiến, của sàn nước tạm bợ. Tất cả những dấu vết khác gần như mất hẳn với sức sống của thiên nhiên, nhanh chóng trả lại cho rừng màu xanh bất diệt.

source

BBC Vietnamese

Sunday, 11 April 2010

Nay, thành phần tinh hoa tử nạn khi đi tưởng niệm những người bị giết


CHÂU ÂU -
Bài đăng : Thứ bảy 10 Tháng Tư 2010 - Sửa đổi lần cuối Thứ bảy 10 Tháng Tư 2010
Máy bay rơi, tổng thống Ba Lan và nhiều viên chức cao cấp tử nạn
Máy bay của Tổng thống Ba Lan bị nạn ngày 10/4/2010
Reuters
Thanh Hà / Tú Anh

Tai nạn xảy ra lúc 10 giờ 50 giờ địa phương cách thành phố Smolensk -Nga vài cây số. Không một ai sống sót. Tổng thống Ba Lan và phái đoàn trên đường đến Katyn tưởng niệm nạn nhân bị Stalin thủ tiêu cách nay 70 năm.

Vào sáng sớm hôm nay, thứ bảy 10 tháng 4 năm 2010, chiếc máy bay của tổng thống Ba Lan loại Tubulev-154 lâm nạn vào lúc chuẩn bị đáp xuống phi trường gần Smolensk, miền tây nước Nga.

Chính quyền Nga xác nhận tổng thống Ba Lan, cùng toàn phái đoàn hơn 96 người trên máy bay đều thiệt mạng. Trên máy bay, ngoài vợ chồng tổng thống Lech Kaczynski, còn có nhiều nhân vật quan trọng khác.

Bộ ngoại giao Ba Lan cho biết trong phái đoàn 85 người có cựu thủ tướng Jaroslov Kaczynski, phó chủ tịch Hạ viện Quốc hội, tướng Tổng tham mưu trưởng quân đội Franciszek Gagor, thống đốc Ngân hàng nhà nước Slavomir Skrypek và thứ trưởng Ngoại giao cùng với nhiều khách mời gồm dân biểu, sử gia và thân nhân của một số sĩ quan bị Stalin thủ tiêu. Phái đoàn tổng thống Ba Lan sang rừng Katyn, miền Tây nước Nga, tưởng niệm 22 ngàn sĩ quan bị Stalin hành quyết cách nay 70 năm .

Nhận được tin này, cựu tổng thống Lech Walesa than rằng : "cách nay 70 năm, Liên Xô đã thủ tiêu thành phần tinh hoa của Ba Lan. Nay, thành phần tinh hoa tử nạn khi đi tưởng niệm những người bị giết"

Một viên chức Nga thuộc ủy ban điều tra nói rằng tai nạn xảy ra trong tình trạng thời tiết « nhiều sương mù ». Máy bay chạm vào ngọn cây, rơi xuống đất và vỡ tan.

Tổng thống Nga Dmitri Medvedev đã gởi bộ trưởng bộ Tình hình khẩn cấp Serguei Choigu đến tận nơi . Thông tin đầu tiên không loại trừ « sai lầm » của phi công.

Theo Hiến pháp Ba Lan, Chủ tịch Quốc hội được chỉ định vào chức vụ tổng thống lâm thời. Đại sứ Ba Lan tại Paris cho AFP biết chính quyền phải đợi ít nhất ba tháng nữa mới có thể tổ chức bầu cử tổng thống.

Tiểu sử tổng thống Lech Kaczynski:

Ông Lech Kaczynski 60 tuổi, nguyên là một luật gia thuộc trường phái bảo thủ công giáo. Từ cuối những năm 1970 cùng với người anh song sinh là Jaroslaw Kaczynski ông đã tham gia phong trào ly khai chống lại chủ nghĩa Cộng sản.

Ông cũng từng là một thành viên tích cực của phong trào Công Đoàn Đoàn Kết Solidarnosc và là một cố vấn của lãnh đạo Lech Walesa. Khi chính quyền của tướng Jaruzelski ban hành thiết quân luật vào tháng 12/1981 tổng thống tương lai Ba Lan đã bị bắt giam cùng với hàng ngàn thành viên khác của Solidarnosc và được trả tự do 11 tháng sau đó.

Sau khi chế độ cộng sản Ba Lan sụp đổ, hai anh em Lech và Jaroslaw Kaczynski đã liên tục hoạt động trong hậu trường. Họ trở thành những cố vấn hàng đầu của tổng thống Walesa. Năm 1990 trong cuộc tuyển cử dân chủ đầu tiên của Ba Lan từ sau Thế chiến thứ hai, tổng thống Lech Walesa đã chỉ định ông Lech Kaczynski làm bộ trưởng An ninh. Tuy nhiên hai anh em nhà Kaczynski sau đó đã bất đồng với tổng thống Walesa về « liệu pháp sốc » trong chính sách kinh tế.

Đến năm 2001 ông Lech Kaczynski đã cùng với Jaroslaw thành lập đảng Pháp luật và Công lý. Một năm sau ông trở thành đô trưởng Varsava. Tháng 10 năm 2005, ông được bầu vào chức vụ tổng thống.

Cũng cùng với Jaroslaw, Lech Kaczynski đã lãnh đạo Ba Lan từ tháng sáu 2006 cho đến tháng 11/2007. Lech ở cương vị tổng thống và Jaroslaw là người đứng đầu nội các. Sau thất bại trong cuộc bầu cử Quốc hội vào tháng 11/2007 tổng thống Ba Lan, Lech Kaczynski phải chia sẻ quyền lực với thủ tướng Donald Tusk thuộc cánh trung tả.
source
RFI Vietnamese

Tuesday, 16 March 2010

Phương Tây trước bài toán Trung Quốc



Chuyến thăm của Ngoại trưởng Anh David Miliband tới Trung Quốc trùng khớp với cảm giác đang tăng ở phương Tây rằng nỗ lực đưa Trung Quốc vào hệ thống ngoại giao và buôn bán toàn cầu đang không được như ý.

Có những vấn đề trước mắt - trị giá đồng tiền Trung Quốc, tranh cãi về trừng phạt với Iran, cãi vã giữa Mỹ và Trung Quốc về Đài Loan, thương mại và Tây Tạng, tranh luận về ấm nóng toàn cầu.

Và cả vấn đề lâu dài hơn - Trung Quốc sẽ đóng vai trò gì trong tư cách đại cường ngoại giao và kinh tế. Liệu nước này sẽ tiếp tục thỏa mãn nép mãi đằng sau trong công việc quốc tế, để đẩy mạnh việc sản xuất và tìm nguyên liệu thô khắp thế giới?

Chuyến thăm của ông Miliband sẽ không đem lại những câu trả lời tức thì. Đối phó với Trung Quốc đòi hỏi cái nhìn dài hạn. Người Trung Quốc cũng có cái nhìn dài như thế. Trung Quốc cũng đã chờ cả thế kỷ để lấy lại Hong Kong.

Phương Tây sẽ phải chờ xem Trung Quốc biến chuyển thế nào, có khi cả nhiều thập niên.

Chủ nghĩa bảo hộ

Nhưng chuyến thăm kiểu này bộc lộ một số bằng chứng về thái độ của Trung Quốc và cơ hội để giải thích cho các lãnh đạo Trung Quốc.

Ông Miliband đã làm điều đó trên phương diện kinh tế trong bài diễn văn tại Thượng Hải hôm thứ Hai, khi ông chống lại chủ nghĩa bảo hộ.

Ông nói: "Nguy hiểm là nếu tăng trưởng tiếp tục chững lại, các nhà nước sẽ không thể nhờ tới công cụ tiền tệ và tài chính để hỗ trợ công nghiệp và có thể xem chủ nghĩa bảo hộ là cứu cánh."

Trung Quốc biết chờ thời - đã đợi một thế kỷ để lấy lại Hong Kong

Trung Quốc có thể không bị thuyết phục. Chỉ một ngày trước đó, sau phiên họp cả tuần của Quốc hội, Thủ tướng Ôn Gia Bảo nói ông không hiểu được "việc hạ giá tiền tệ của chính mình và cố thúc các nước khác tăng giá tiền của họ, chỉ để cải thiện xuất khẩu".

Trung Quốc cũng biết rằng nếu chi phí xuất khẩu hàng tiêu dùng bị đẩy lên thì sẽ dẫn tới việc tăng giá sinh hoạt ở nhiều nước phương Tây, một điều sẽ chẳng được lòng dân ở các nước đó. Vì thế Trung Quốc đã chuẩn bị vài lá bài.

Trên nhiều lĩnh vực, có dấu hiệu là Trung Quốc quyết tâm chứng tỏ họ không phải là dễ bị ép.

Nhưng nước này dường như cũng không muốn bị xem là chướng ngại.

Trừng phạt Iran

Hành động cân bằng này trở nên mong manh nhất khi bàn tới Iran.

Iran tiếp tục bỏ qua đòi hỏi của Cơ quan Nguyên tử Năng Quốc tế và Hội đồng Bảo an LHQ rằng nước này phải ngừng làm giàu uranium.

Trung Quốc đồng ý rằng Iran cần tuân thủ, nhưng ít nhất đến nay vẫn chưa đồng ý rằng đã tới lúc có vòng trừng phạt cứng rắn hơn với Iran.

Mỹ và các đồng minh muốn có cơ chế trừng phạt do Hội đồng Bảo an áp đặt, mà đây là nơi Trung Quốc và Nga có quyền phủ quyết.

Nga đã ngần ngại nhưng nay có vẻ sẵn lòng làm theo. Nếu Nga làm theo, các nhà ngoại giao phương Tây hy vọng Trung Quốc cũng sẽ đồng ý.

Vấn đề là để Trung Quốc đồng ý lên thuyền, thì phải làm thuyền nhẹ đi bằng cách bỏ bớt một số trừng phạt nặng hơn - ví dụ chống lại ngành dầu hỏa và khí đốt của Iran, mà vốn bán nhiều cho Trung Quốc.

Nhưng để Trung Quốc đồng ý, hay bỏ phiếu trắng ở Hội đồng Bảo an, thì sẽ làm gia tăng ảnh hưởng ngoại giao.

Sir Percy Cradock, nhà ngoại giao Anh thương lượng cho việc chuyển giao Hong Kong cho Trung Quốc, có lần đưa ra lời khuyên về thực tế đối phó với Trung Quốc.

Nói với các nhà báo tại một buổi gặp ở sứ quán Anh ở Bắc Kinh, ông bình phẩm rằng với Trung Quốc, "ta phải dõi mắt nhìn bóng, chứ không phải nhìn đám đông".

Lúc đó, quả bóng là việc xây một phi trường mới cho Hong Kong, mà sau này đã được thông qua.

Sir Percy nói: "Đó là phần thưởng." Thế còn các vấn đề khác, ví dụ như nhân quyền?

Ông trả lời với nụ cười: "Chuyện phiếm."

source

BBC Vietnamese

Sunday, 21 February 2010

Ngàn Năm Nhìn Lại Thế Giới...Ngàn năm (...) đất Thăng Long...


February 19, 2010


NGUYỄN XUÂN NGHĨA/Việt Tribune

Giật mình nhớ chuyện ngàn năm cũ
Chiêm-Lạp xưa kia vốn chẳng hèn!...

Nhượng Tống Hoàng Phạm Trân đã viết như vậy – trước khi bị (...) ám sát. Bây giờ chúng ta lại giật mình nhớ tới ông vì Hà Nội chuẩn bị kỷ niệm Ngàn năm Thăng Long sau khi quyết định (...) Hoàng thành Thăng Long (...) tòa nhà Quốc hội được quảng cáo là hoành tráng vĩ đại!

Nói về “Ngàn năm Thăng Long”, ta nhớ đến Thái tổ Lý Công Uẩn và quyết định dời đô từ Hoa Lư lên La Thành… Nói đến nhà Lý, triều đại tồn tại liên tục 216 năm, chúng ta nhớ đến 70 năm loạn lạc trước đó, kể từ khi Ngô Quyền đánh bại quân Nam Hán rồi xưng vương năm 939… Sau hơn ngàn năm Bắc thuộc, nước Nam đã thành hình từ những biến cố ấy… cho đến ngày nay. Đó là nội dung bài viết trên cột báo này vào tuần trước…

Bây giờ, nhìn rộng ra ngoài, khi Thăng Long lên ngôi là Kinh đô Đại Việt thì các nước khác đang là gì, làm gì?...

Khi ấy, Hoa Kỳ chưa kịp đầu thai!

Khi ấy, Đế quốc La Mã đã tàn lụi tại Âu Châu và chỉ còn phân nửa miền Đông dưới tên là Đế quốc Byzantium. Byzantium hay Byzance là tên cũ của Constantinople, một kinh đô đông dân nhất nhì địa cầu vào thời cổ. Đế quốc tại Byzance này tiêu vong vào năm 1453 vì sự xuất hiện của Đế quốc Ottoman theo Hồi giáo tại Trung Đông, là chuyện về sau…

Múa rồng tại Hà Nội ngày 18 tháng 2, 2010 kỷ niệm lần 221 chiến thắng của Hoàng Đế Quang Trung. Hoàng Đình Nam/Getty Images

Vào thời nhà Lý của nước ta thì tại khu vực Âu Châu như ta nói hiện nay, Thiên chúa giáo là thế lực tôn giáo và chính trị có ảnh hưởng tỏa rộng. Nhưng chưa hẳn là có thực quyền vì còn bị các lãnh chúa địa phương vận dụng, lợi dụng và khai thác, để tranh đoạt quyền bính. Âu Châu vào thời gọi là “Hạ Trung Cổ”, từ thế kỷ thứ X tới thế kỷ XV, thật ra còn… man rợ.

Và chinh chiến là quy luật phổ biến. Nếu đem loạn “Thập nhị Sứ quân” của nước Nam mà nhân lên kích thước của cả một đại lục thì ta có tình hình Âu Châu vào đời Lý của mình.

Tại đây, thủ lãnh các tiểu vương quốc diệt nhau để tiến lên vị trí vương quốc – chứ chưa có thể nói đến “quốc gia” hay “đế quốc” như chúng ta hiểu sau này. Đồng thời, xung đột giữa các vương quốc ở phía Tây với thế lực Hồi giáo rất mạnh ở phía Đông đã mở ra nhiều đợt “Thập tự chinh” – tiến về Thánh địa Thiên chúa giáo ở Trung Đông. Với hậu thuẫn của Giáo hội La Mã và lời kêu gọi của Đế quốc Byzantinum (mảnh vụn còn lại của Đế quốc La Mã tại phía Đông), các lãnh chúa và vương quốc cùng phất cờ “Thánh chiến” để bảo vệ đạo pháp.

Thực tế có khi là nhân danh Giáo hội hay đức Giáo hoàng mà gia tăng quyền lực và ảnh hưởng của họ....

Tại Pháp, dòng Capétiens – do tên “tục” của vua Hugues Đệ nhất là Hugues “Capet” – là thế lực mạnh nhất. Chính thức tồn tại từ năm 987 đến sau cuộc Cách mạng Pháp (đến năm 1792, là khi Quang Trung thăng hà). Nói “mạnh nhất” nghĩa là tương đối thôi. Như vua Lý Thái Tổ của ta, từ khi lên ngôi, vua Hugues Capet này phải chật vật tiễu trừ và tiêu diệt các lãnh chúa địa phương, mà sau này ta cứ gọi là “phong kiến”. Cũng như nhà Lý, nhà Capet bắt đầu định chế hóa việc nối dõi để mỗi đời vua lên ngôi lại khỏi là một đợt can qua binh lửa hay đảo chánh trong triều….

Trong mấy trăm năm, trên cực điểm thì dòng Capet làm chủ được một lãnh thổ gần bằng phân nửa nước Pháp hiện nay – mà thôi. Thế lực đối nghịch đáng kể nhất là một vương quốc mới nổi ở bên kia bờ biển, mà sau này ta gọi là nước Anh. Như trong nhà Lý của Đại Việt, chinh chiến và hôn nhân là hai giải pháp bành trướng thế lực hay cầu hòa….

Tranh chấp giữa nhà Capet tại Pháp và nhà Plantagenêt tại Anh là một biến cố lớn và kéo dài…

Dù sao, vua Philippe August của nhà Capet – bậc hùng tài coi như mạnh nhất Âu châu vào thời suy vọng của nhà Lý ở nước ta – thì chỉ kiểm soát được một phần ba lãnh thổ Pháp. Cháu nội của ông là Louis IX phải hòa giải với nhà Plantagenêt và nương vào Giáo hội để khống chế được các vương hầu ở dưới. Ông được phong thánh nên sau này mới có tên là vua Saint Louis.

Bên kia biển Manche, khi dân ta đang giành lại quyền tự chủ thì nước Anh còn là một khu vực gồm bảy vương quốc. Tất nhiên là đánh nhau tưng bừng còn hơn Thập nhị Sứ quân!

Khi triều Lý củng cố được chế độ quân chủ đầu tiên của nước Nam, dân Normand trên đất Pháp tràn qua chiếm nước Anh. Đó là thành tích máu lửa của Quận công Guillaume le Conquérant – phải dùng tên Pháp vì là dân… Tây – vào năm 1066. Gọi là “công” vì ông chỉ là “duc” hay “duke” – còn dưới tước “vương” của nhà vua. Hãy nghĩ đến các ông vua chỉ ở hạng “công” như Tề Hoàn công hay Tấn Văn công, so với các Thiên tử Chu Bình vương, Chu Noãn vương thời Xuân Thu bên Tầu; hoặc các sứ quân Trần Minh công, Ngô Lãm công bị Vạn Thắng vương Đinh Bộ Lĩnh khuất phục… thì mình dễ nhớ tới sự khác biệt giữa “vương” và “công”!

Đâm ra, một dòng vua nửa Anh nửa Normand ra đời và cai trị toàn thể nước Anh cùng một phần lãnh thổ rất rộng của Pháp! Hãy tưởng tượng như các vua chúa Chiêm Thành vào Thăng Long và từ đó làm chủ nước Đại Việt vậy… Ngàn năm trước, chuyện ấy không xảy ra tại nước ta. Ngược lại là khác, như Nhượng Tống đã nhắc nhở.

Ông Guillaume này bị gọi là “Con Hoang” vì là con ngoại hôn của Quận công Robert le Magnifique – và có vài chục đứa con. Con cháu đời sau lập ra dòng Plantagenêt tại Anh và việc tranh đoạt quyền bính kéo dài giữa hai nước Anh Pháp. Tranh đoạt ấy dây dưa mãi và dẫn đến “Trận chiến Trăm năm” giữa hai nước, thực tế là 116 năm, mãi đến 1453 mới dứt.

Trong thời kỳ gọi là “Hạ Trung Cổ” – kéo dài từ sự ra đời của nhà Capet tại Pháp cho đến khi Đế quốc Byzance tan rã và thành phần ưu tú của họ chạy về Âu Châu để mở ra thời Phục Hưng năm 1453 – thì Âu Châu thật ra còn rất nghèo. Và lạc hậu. Các sử gia của họ gọi đó là “thời kỳ đen tối”. Chỉ sau thời Phục Hưng, Âu Châu mới thực sự lớn mạnh, rồi chinh phục toàn cầu.

Trong giai đoạn Hạ Trung Cổ ấy, về tư tưởng, văn hoá và giáo dục, thì Thiên chúa giáo là thế lực có ảnh hưởng nhất. Chiến tranh và sự tranh đoạt quyền bính giữa các lãnh chúa hay vương công là thực tế thường trực. Làng xã có phát triển dần thành các thị trấn, nhưng còn nhỏ hẹp. Và phải được bảo vệ bằng thành lũy. Thể thao là trò chơi nhằm trau giồi khả năng chiến trận, và một số tiến bộ khoa học thu lượm được là nhờ những va chạm và học hỏi với thế giới Hồi giáo. Ngoài tư tưởng Thiên chúa giáo và một số di sản văn hóa thời Hy Lạp La Mã, thì nhiều thành tựu khoa học kỹ thuật của cõi Âu Châu đó xuất phát từ Trung Đông…

Khi ấy, Âu Châu có nghe nói đến một đế quốc còn lớn hơn nữa, tại Viễn Đông. Đó là nhà Đại Tống mà mình sẽ tìm hiểu sau vì thật ra, đây là một triệu đại èo uột và duy nhất của Trung Quốc bị Đại Việt đánh cho tơi tả ngay trong lãnh thổ! Ăn Tết rồi và nhớ về “Ngàn năm Thăng Long” của mấy (...) thì nên nhớ lại những chuyện đó.

Để đừng có hèn nữa![NXN]

source

Viet Tribune Online

Saturday, 26 December 2009

Lý do của vụ xử tử Ceausescu


Lý do của vụ xử tử Ceausescu

Cách đây hai mươi năm, đất nước Romania trải qua một cuộc cách mạng kéo dài một tuần lễ, hạ bệ lãnh tụ Nicolae Ceausescu. Phóng viên BBC Nick Thorpe nói chuyện với một trong những nhân vật quan trọng trong thời kỳ này - tướng Victor Stanculescu.

Trong chiếc áo sơ mi carô và áo khoác nâu đậm, tướng Victor Stanculescu trông có vẻ yếu nhưng vẫn luôn nghiêm chỉnh như người ta vẫn thường thấy nơi các cựu chiến binh.

Chúng tôi gặp nhau trong phòng giải trí của bệnh viện nhà tù ở Jilava, mạn bắc Bucharest, nơi ông bắt đầu thụ án tù từ năm ngoái về tội ngộ sát với tình tiết nghiêm trọng.

Ông bị kết tội đã ra lệnh cho quân lính nổ súng vào đám đông ở thành phố Timisoara, miền tây Romania, trong ngày 17 và 18 tháng Mười Hai - một tội danh mà ông luôn phủ nhận.

Bên ngoài nhà tù là mùa đông khắc nghiệt, âm 7 độ C.

Xung quanh là tháp canh, hàng rào kẽm gai, và bên trong nhà tù là chó cảnh vệ.

Một vài tù nhân cầm xẻng xúc và dọn tuyết.

Nếu địa ngục mà lạnh giá thì chắc phải trông giống cảnh ở đây.

Có cả một hình nhân bằng tuyết, đội chiếc nón tù màu xám.

Bệnh viện nhà tù là nơi ông Stanculescu bị giam thì không khí có vẻ thân thiện hơn - một tòa nhà hiện đại, cao ba tầng, sơn màu vàng và trắng.

Thời điểm nguy cấp

tướng Victor Stanculescu

Tướng Stanculescu luôn phủ nhận cáo trạng

Trên ve áo ông tướng tự hào đeo một chiếc huy hiệu.

Tôi nhìn kỹ hơn. Dòng chữ bằng tiếng Anh: Hiệp hội những người chơi Snooker của Romania.

"Tôi là chủ tịch hội," ông tướng tự hào giới thiệu.

Từng làm bộ trưởng quốc phòng ngày 25 tháng Mười Hai năm 1989, Stanculescu đã chứng kiến phiên tòa và vụ tử hình hai vợ chồng Tổng thống Nicolae và Elena Ceausescu, tổng tư lệnh quân đội của ông.

Phiên tòa đó có nhanh quá hay không và bản án có công bằng hay không, hay là vì cần thiết, hay cả hai?

"Bản án không công bằng, nhưng cần thiết," ông Stanculescu trả lời.

"Nếu chúng tôi để cho dân chúng Bucharest tự do hành động thì chắc là người ta đã hành hình họ trên đường phố."

Ông kể lại hai sự kiện để miêu tả tính nguy cấp của lúc đó.

Trên đường ông đến doanh trại quân sự, nơi Ceausescu bị giam giữ sau khi bị bắt, ông cẩn trọng gọi điện cho lãnh đạo phòng không để tham vấn.

Họ đồng ý là ông ta sẽ đeo khăn choàng trắng khi đến nơi bằng trực thăng.

Lãnh đạo phòng không được thông báo là "các tay khủng bố" có thể sẽ tấn công nhằm giải cứu.

Nhờ có khăn trắng mà ông ra lệnh cho binh sĩ của mình ngưng bắn.

'Công nhận sự hi sinh'

Tưởng niệm người chết năm 1989

Nhiều người dân Rumani bị chết năm 1989

Theo ông Stanculescu, sau phiên tòa và vụ tử hình, khi họ mang xác đi trên chiếc xe bọc thép, họ đã bị bắn và có ba binh sĩ chết.

"Điều đó cho thấy rằng vẫn còn một vài tướng lãnh quân đội vẫn còn ủng hộ Ceausescu," ông nói.

Stanculescu tham gia cuộc Cách mạng, và giữ chức Bộ trưởng Quốc phòng và sau đó là Bộ trưởng Công nghiệp trong chính phủ mới.

Ông bị đưa ra tòa lần đầu tiên năm 1997, sau khi đồng minh của ông là Tổng thống Ion Iliescu bị mất quyền lực.

Stanculescu bị kết tội, nhưng các phiên điều trần và kháng cáo vẫn tiếp tục trong 10 năm sau đó.

Ông chỉ bị chính thức tuyên án và đưa vào tù vào tháng Mười Một năm 2008.

"Tôi không hề ra lệnh cho ai. Và tôi không ra lệnh cho bất kỳ lực lượng nào dưới quyền tôi ở Timisoara thực hiện bất kỳ hành động đàn áp nào," Stanculescu nói.

Vậy có nên tìm ra những người thực sự chịu trách nhiệm và khởi tố họ?

"Tất cả các nhân vật quan trọng đều đã chết, cho nên không có lý do gì để mà kết án họ nữa."

"Chỉ cần công nhận sự hi sinh của những ai đã chiến đấu trong cuộc cách mạng - và bảo đảm là gia đình họ được sống từ tế," ông trả lời.

Các biện pháp hòa bình

Hai mươi năm trôi qua, những người Romania từng sống qua cuộc cách mạng vẫn đang cố gắng giải nghĩa nó, và về giai đoạn cầm quyền của Ceausescu.

Timisoara

Tướng Stanculescu bị kết án đã ra lệnh giết người ở Timisoara

"Tôi thường tự hỏi, nếu Ceausescu hôm nay còn sống, thì ông liệu có cơ hội thắng cử nếu ra tranh cử Tổng thống hay không?" ông Stejarel Olaru, lãnh đạo Ủy ban điều tra tội phạm thời cộng sản do tổng thống Basescu lập ra, nhận xét.

"Và tôi tin là ông ta sẽ thắng. Dân chúng tin rằng Ceausescu đã làm nhiều điều tốt... rằng ông cho dân chúng nhà cửa, việc làm, và lương bổng khá."

"Sai lầm của ông ta, họ nghĩ, là đã không cung cấp đủ thức ăn cho cửa hàng."

Lối suy nghĩ đó khá ngu ngốc, ông nói, nhưng khá phổ biển.

Các căn hộ thời đó bé nhỏ và chật chội, việc làm thường không năng suất.

Và người ta quá dễ dàng quên đi nỗi sợ tràn ngập về mạng lưới an ninh cảnh sát.

"Tháng Mười Hai năm 1989 là cuộc đối đầu giữa nhà nước và nhân dân Romania," theo Claudiu Iordache, giám đốc Viện cách mạng Romania ở Bucharest.

"Và cuộc chiến đó vẫn tiếp diễn đến ngày hôm nay, nhưng bằng các biện pháp hòa bình hơn."

"Nhà nước vẫn tiếp tục áp đặt ý muốn của mình lên dân chúng, những người phải gánh chịu hậu quả."

**********

source

BBC Vietnamese

Monday, 16 November 2009

Ai đã làm sập bức tường Bá Linh?


November 13, 2009


TUẤN MINH

Ai là người có công đã làm sụp đổ bức tường Bá Linh? Là công của Tổng thống Ronald Reagan Hoa Kỳ hay công của Đức Giáo Hoàng John Paul II?

Trong buổi lễ tưởng niệm 20 năm ngày sụp đổ bức tường Bá Linh vào thứ Hai đầu tuần này, nữ Thủ tướng Angela Merkel của Đức có một câu trả lời khác: Bà đã chỉ cám ơn đến một lãnh tụ duy nhất: tổng bí thư đảng Cộng sản Sô Viết Mikhail Gorbachev, nhân vật được coi như là ủng hộ các biện pháp cải cách thực sự với perestroika (tái cấu trúc) và glasnost (cởi mở) tại Liên Sô. Và, quan trọng hơn hết là Gorbachev đã không dùng quân đội để đàn áp các cuộc biểu tình tại các nước Đông Âu như đã từng xảy ra trong quá khứ.

ngày 9/11/2009Cựu TT Liên Xô cũ Mikhail Gorbachev, trái, được mời đến tham dự cùng Thủ Tướng Đức Angela Merkel, phải, nhân dịp lễ kỷ niệm 20 năm tường Berlin sụp đổ. Sean Gallup/Getty Images

Trong buổi lễ, bà Merkel đã mời ông Gorbachev cùng đến viếng lại cây cầu Bornholmer Strasse, được coi như là điểm giao tiếp được mở cửa tự do đầu tiên trong ngày 9 tháng 11 năm 1989. Và trong lời cám ơn ông Gorbachev, bà Merkel nói: “Chúng tôi đều biết rõ là phải có một biến cố nào đó xảy ra (những cải cách tại Liên Sô) thì mới có thể dẫn đến nhiều sự thay đổi lớn lao khác xảy đến tại nơi này. Ông là người đã làm cho sự kiện này được hiện thực, ông đã can đảm để cho nhiều diễn tiến (thay đổi) xảy ra, và đó là những điều đã vượt quá sự mong đợi của chúng tôi.” Tiếng vỗ tay của hàng ngàn người tụ tập dưới cơn mưa nhẹ và cùng hô to “Gorby! Gorby!” trước khi cả hai vị cùng sánh vai bước qua chiếc cầu băng ngang những đường rầy xe lửa.

Thật ra thì trong suốt thời gian dài 40 năm dưới thời Chiến Tranh Lạnh, đã có nhiều cuộc nổi dậy của người dân chống đối những chính quyền tại Đông Âu do chế độ Liên Sô dựng lên. Đa số mọi người còn nhớ đến những cuộc nổi dậy tại Đông Bá Linh vào năm 1953, tại Hung Gia Lợi (Hungary) vào năm 1956, tại Tiệp Khắc (Czechoslovakia) vào năm 1968 và tại Ba Lan (Poland) trong rất nhiều dịp khác nhau khiến người ta không còn nhớ hết để kể ra. Thế nhưng tất cả những cơn nổi dậy này đều thất bại và đều bị đè bẹp bởi quân đội và xe tăng của Hồng quân Liên Sô.

Thế nhưng phải đến mùa thu 1989 thì những cuộc nổi dậy mới bắt đầu thành công. Có lẽ vào thời điểm ấy không có ai dám nghĩ đến hay tiên đoán được một cuộc cách mạng to lớn có tính cách thay đổi lịch sử sâu đậm như vậy lại có thể diễn ra một cách êm thắm quá mức vì đã không có tiếng súng nổ và cảnh máu đổ tan xương nát thịt. Dĩ nhiên, cũng có một ngoại lệ nhỏ xảy ra tại Lỗ Ma Ni (Romania) nhưng dù sao thì con số nạn nhân thiệt mạng cũng có thể được coi là rất ít, nhất là sau biến chuyển bất ngờ hai vợ chồng lãnh tụ độc tài Nicolas Ceausescu bị bắt giữ và xử tử nhanh chóng.

Đi tìm câu trả lời cho câu hỏi trên, tạp chí Foreign Policy nhân dịp này đã mở một loạt bài tìm hiểu về những diễn biến trong lịch sử, trong đó có bài viết của nhà báo Christian Caryl đề ngày 6-11, với tựa đề: “Who Brought Down the Berlin Wall?”, tạm dịch là Ai Đã Làm Sập Bức Tường Bá Linh? Tác giả đã liệt kê lại nhiều nguyên nhân thường được mọi người cho là đã góp phần dẫn đến việc làm sụp đổ bức tường ô nhục, đồng thời phân tích lại những diễn biến xảy ra vào thời điểm ấy để giúp người đọc có được cái nhìn đầy đủ và chính xác hơn.

1. Công của TT Ronald Reagan.
Những người thích suy tôn vị tổng thống này thường nhắc đến lời nói bất hủ của ông Reagan khi đọc bài diễn văn tại Cổng Brandenburg vào ngày 12/6/1987 với lời thách thức đưa ra cho vị lãnh tụ khối Sô Viết: “Ông Gorbachev, hãy đập bỏ bức tường này đi!” Nhiều người cho rằng chính cái tinh thần cương quyết và mạnh dạn chống Cộng này, đi kèm với những lời nói hùng mạnh, đã là động lực chính đẩy mạnh những biến động dẫn đến sự sụp đổ của chế độ Liên Sô.

Trong thực tế, những lời nói của ông Reagan đã chẳng để lại một dấu ấn gì đặc biệt cho những người dân sống tại các nước Đông Âu. Những phong trào chống đối tại Đông Đức và Tiệp Khắc thật ra có những đòi hỏi ôn hoà hơn nhiều so với những lời hung hăng theo diều hâu của đảng Cộng Hoà; còn tại Ba Lan thì đa số dân chúng và những người tranh đấu trong phong trào Đoàn Kết thì đã có Giáo Hoàng John Paul II làm lãnh tụ tinh thần cho họ. Các phụ tá của ông Reagan coi bài diễn văn này thật ra chỉ có tính cách màu mè, với hậu ý gây tiếng vang tại nội địa nước Mỹ nhiều hơn mà không tạo nên những căng thẳng không cần thiết trên trường quốc tế. Những bài tường thuật về bài diễn văn và sự xuất hiện của ông Reagan cũng chẳng có gì quan trọng và vì thế nên cũng không được đăng trên trang đầu của hai tờ nhật báo lớn là Washington Post và New York Times lúc bấy giờ.

Ngay cả Cố vấn An ninh Quốc gia cho ông Reagan vào thời ấy là Frank Carlucci, sau này cũng đã nhìn nhận: “Đúng là một câu nói rất hay trong bài diễn văn. Nhưng điều đó sẽ không bao giờ xảy ra.” Còn ngay tại Tây Bá Linh, số người đứng nghe bài diễn văn và vỗ tay hoan hô ông Reagan quá ít so với những người đến biểu tình chống đối sự có mặt của ông Reagan, trong đó có rất đông những người của đảng Xanh với chủ trương bảo vệ môi sinh và phản chiến, nên chẳng lấy gì hài lòng trước những chính sách diều hâu của Hoa Kỳ lúc bấy giờ.

Khách quan mà nói, chính thái độ của ông Reagan có phần dịu giọng, nhất là trong cuối nhiệm kỳ hai, và sẵn sàng nhượng bộ với ông Gorbachev nên đã thúc đẩy cho lãnh tụ khối Liên Sô lúc bấy giờ không nghĩ đến việc phải dùng đến biện pháp mạnh bằng quân sự để giải quyết vấn đề, từ đó dẫn đến việc thay đổi chế độ rất êm thắm. Vì thế nên một nhà báo người Anh là ông Victor Sebestyen đã gọi ông Reagan là “Tay Bồ Câu Hàng đầu của Hoa Kỳ” (America’s Leading Dove).

2. Hướng đi tất yếu của lịch sử.
Những người bênh vực cho nguyên nhân này nói rằng lịch sử vào lúc ấy đứng về phía những người chống đối khiến cho các lãnh tụ cầm quyền tại các nước trong khối (...) Liên Sô không dám nghĩ đến việc dùng quân đội và công an để đàn áp.

Thật ra vấn đề không đơn giản như vậy, vì nói cho cùng mọi người dân trong các chế độ độc tài thường vẫn lo sợ trước bộ máy an ninh của nhà nước. Cuộc đàn áp dã man tại Quảng trường Thiên An Môn vào ngày 4 tháng 6 năm đó cho người ta thấy là chính quyền vẫn có khả năng đàn áp và đè bẹp tất cả mọi sự chống đối hay nổi dậy của quần chúng, và giúp cho giới lãnh đạo giữ vững quyền lực. Giá như giới lãnh đạo tại Đông Đức lúc bấy giờ quyết định ra tay đàn áp các cuộc nổi loạn trong nước thì chắc chắn là những hậu quả này sẽ tạo ra một tình trạng lo sợ lan truyền nhanh sang các quốc gia lân cận.

Tổng bí thư Đảng (...) Đông Đức là Erick Honecker và các đồng chí của ông trong Chính Trị Bộ vẫn còn có toàn quyền và khả năng để sử dụng biện pháp này. Vào tháng 9 năm 1989, hình ảnh trên truyền hình Đông Đức thường chiếu những lời tuyên truyền để đề cao về thái độ “cương quyết” của những đồng chí tại Bắc Kinh, ám chỉ những biện pháp dùng quân đội để dẹp tan các cuộc biểu tình. Vào ngày 9-10, các viên chức chính quyền còn trao vũ khí và đạn dược cho các lực lượng an ninh trước ngày diễn ra cuộc “Biểu dương vào ngày thứ Hai” tại Leipzig, và vận động sẵn nhân viên trực tại các nhà thương trong vùng để sửa soạn trước cho viễn tượng sẽ có đông đảo các nạn nhân thương tích hay thiệt mạng được mang tới sau khi cuộc biểu tình sẽ bị đàn áp. Cuối cùng cũng có đến 50,000 người xuống đường tham dự, nhưng rất may là vào giờ chót các lãnh tụ địa phương đã quyết định không dùng biện pháp mạnh; và chắc hẳn lịch sử thế giới đã đi vào một ngã rẽ khác nếu như các viên chức này đã thay đổi ý định.

3. Công của CIA.
Theo lập luận này thì các gián điệp của Cơ quan Tình báo Trung ương Hoa Kỳ đã có công làm suy yếu bộ máy của chế độ Liên Sô và từ đó dẫn đến sự sụp đổ qua việc giúp đỡ cho những kẻ thù của chế độ Sô Viết.

Không ai chối cãi là CIA đã đóng một vai trò quan trọng trong việc tài trợ cho các kháng chiến quân A Phú Hãn (mujahideen) theo đuổi cuộc thánh chiến của họ để chống lại lực lượng xâm lăng của Hồng quân Nga vào đầu thập niên 1980 và gây nhiều thiệt hại cho quân đội này. Dĩ nhiên CIA cũng có công tìm cách tài trợ cho lực lượng của nghiệp đoàn Đoàn Kết qua ngả Vatican với sự yểm trợ ngầm của Giáo Hoàng John Paul II.
Thế nhưng trong các biến cố xảy ra trong năm 1989, các tay gián điệp của CIA gần như bao giờ cũng đi sau sự kiện vì đã không tiên đoán được trước những gì đã xảy ra. Trong phần sau của thập niên 1980, các chuyên viên của CIA đã không tiên đoán được về những ý định thực sự của ông Gorbachev. Đến cuối năm 1988, các báo cáo của CIA đều tiên đoán rằng các chế độ Đông Âu vẫn tiếp tục được duy trì. Khi bức tường Bá Linh bị sụp đổ và Toà Bạch Ốc muốn hiểu biết thêm về những nguyên nhân thì các viên chức lãnh đạo của CIA đều thú nhận là họ đã không có một gián điệp nào hiện diện tại Đông Bá Linh hoặc tại Điện Cẩm Linh (Kremlim) để biết rõ hư thực.

Trưởng nhóm CIA đặc trách về hoạt động tại khối Liên Sô lúc bấy giờ là ông Milton Bearden đã ngồi xem diễn biến của đêm lịch sử ấy nhờ vào màn hình của đài truyền hình dây cáp CNN, chứ không phải là nhờ vào những báo cáo của các gián điệp trong vùng. (Một trong những lý do chính để giải thích vì sao phía tình báo Mỹ đã không biết rõ gì phía bên kia bức màn sắt vì một trong những tay gián điệp nhị trùng là Aldrich Ames đã tiết lộ danh tính tất cả những gián điệp của Mỹ tại Liên Sô khiến họ bị thanh toán. Mãi đến năm 1994 thì Aldrich Ames mới bị lật tẩy và bắt giữ.)

4. Khối Liên Sô bị sụp đổ vì thất bại về kinh tế.
Nhiều người cho rằng động lực và nguyên nhân chính dẫn đến sự sụp đổ của bức tường Bá Linh, kéo theo sự tan rã của chế độ (...) Sô viết là tình hình kinh tế tụt dốc tệ hại khiến cho các chế độ này không còn có khả năng đứng vững.

Lập luận này có phần hơi đơn giản, tuy rằng cũng có những yếu tố khá thuyết phục. Mọi người đều nhìn thấy rõ là sinh hoạt kinh tế tại Liên Sô lúc bấy giờ không thể được coi là tốt đẹp so với các nước khác bên khối Tự Do. Hầu hết các chính quyền trong Khối Warsaw như Đông Đức, Ba Lan, Tiệp Khắc, Hung Gia Lợi, Lỗ Ma Ni đều mang công mắc nợ rất nhiều khiến cho chính phủ gặp lúng túng vì thiếu khả năng để giải quyết những khó khăn về kinh tế trong nội địa. Vào năm 1989, mức nợ các nước ngoài của Đông Đức lên đến 26.5 tỷ Mỹ-kim, và mỗi năm phải tốn đến 4.5 tỷ Mỹ-kim chỉ để trả tiền lời, coi như chiếm đến 60% giá trị của tổng số hàng xuất cảng của cả nước.
Tuy nhiên, kinh nghiệm diễn ra tại hai nơi khác là Cuba và Bắc Hàn, những nước gần như lâm vào tình trạng khánh tận vào năm 1989 khi không còn nhận được viện trợ từ phía đàn anh Liên Sô, cho thấy là các chế độ (...) vẫn còn có khả năng sống còn với những biện pháp kềm kẹp và kiểm soát gắt gao mặc dù ngân quỹ nhà nước rất nghèo nàn và yếu ớt.

Hơn nữa, sự kiện các nước Đông Âu mắc nợ lớn đối với ngoại quốc, nhất là từ các nước phương Tây, đã chưa hẳn là một mối nguy cơ khiến cho các chính quyền độc tài này có thể bị lung lay như nhiều người tiên đoán. Bởi vì điều này chỉ xảy ra nếu như Hoa Kỳ và các đồng minh làm áp lực để tạo khó khăn, chẳng hạn như đòi trả nợ hoặc ép buộc một số những đổi thay nào đó trong chính sách. Tuy nhiên, vào thời điểm của năm 1989, tất cả các lãnh tụ ở phương Tây từ các thủ tướng Helmut Kohl của Tây Đức và Margaret Thatcher của Anh cho đến Tổng thống George H.W. Bush cũng đều ngần ngại có những thái độ hay quyết định nào có thể bị coi là “gây bất ổn” (destabilizing) vùng này.

Để kết luận, theo nhà báo Christian Caryl, có lẽ sự hiện diện đông đảo của quần chúng tại nhiều thủ đô khác nhau tại Đông Đức, Ba Lan, Hung Gia Lợi và Tiệp Khắc có thể đã bất ngờ tạo nên một thử thách cấp bách cho giới lãnh đạo muốn củng cố quyền hành và sự chính thống của chế độ. Ngoài ra cũng có rất nhiều yếu tố khác đồng loạt xảy ra vào cùng một thời điểm: sự xuất hiện của một lãnh tụ ôn hoà và chấp nhận cải cách như ông Mikhail Gorbachev với quyết định không dùng bạo lực để đàn áp các cuộc biểu tình; tình hình kinh tế trì trệ kéo dài tại các nước không theo mô hình kinh tế tự do của thị trường; sự chán nản và mất dần tin tưởng về ý thức hệ (...) trong nhiều tầng lớp quần chúng và công chức trong nước; chưa kể đến những nguồn thông tin dồn dập đến từ phương Tây. Có lẽ tất cả những yếu tố này phối hợp lại, dù là vô tình chứ không phải đã được phối hợp hoặc tính toán từ trước, đã tạo nên những biến động diễn ra trong năm 1989.

Tuấn Minh
Houston, Texas 11-11-2009

******************

source

Viet Tribune Online

Monday, 9 November 2009

Bức tường Bá Linh - biểu tượng sự thất bại của bạo lực (...)




Nguyên HânTóm lược


Bức tường Bá Linh - một biểu tượng thất bại hoàn tòan của Chủ nghĩa (...) ở châu Âu


Theo nhà báo Jonathan Eyal, những biến cố lịch sử tuồng như được khởi đầu bằng những yếu tố bất ngờ, thậm chí vô lý. Và Bức tường Bá Linh sụp đổ cũng khởi đầu như thế, bắt nguồn từ một lỗi lầm quan liêu hành chánh.

Hè năm 1989, nhà nước (...) đối diện với một làn sóng biểu tình. Áp lực càng lúc càng gia tăng khi những nước (...) láng giềng như Hungary và Ba Lan bắt đầu nới lỏng sự kiểm soát chính trị và những hạn chế khắc khe ở biên giới trong nước của họ.

Những nhà lãnh đạo Đông Đức bỗng có một ý tưởng lạ thường: ngày 9 tháng Mười Một năm 1989, tân tổng bí thư đảng Egon Krenz tuyên bố cho phép một số công dân Đông Đức được đi trực tiếp qua Tây Đức sau khi nộp đơn xin chiếu khán ra đi.

Viên chức nhà nước (...), ông Gunter Schabowski người trả lời câu hỏi của báo chí và được truyền thanh trực tiếp: “Vâng, (lệnh có gía trị) ngay lập tức, không chậm trễ." Nguồn: www.bildercache.de
Thoạt đầu, đây chỉ là một biện pháp tạm thời trong chuyện kiểm soát biên giới nhằm loại bỏ những người Đông Đức bất đồng chính kiến, mà nhà nước tin rằng chắc chắc là những người này sẽ chạy qua Tây Đức trước hết nếu được cho phép. Nhưng viên chức cao cấp của nhà nước Đông Đức được đưa đến để thông báo quyết định này ông Gunter Schabowski đã không nắm vấn đề thấu đáo, hoặc không đọc mật lệnh cho rõ ràng. Nên khi một nhà báo đặt câu hỏi trong một buổi họp báo quốc tế và được truyền thanh trực tiếp, "liệu điều này có nghĩa ai cũng được tự do đi qua biên giới", viên chức này đã trả lời: “Vâng, (lệnh có gía trị) ngay lập tức, không chậm trễ.”

Sự việc được ghi nhận như là một lỗi lầm hành chánh có ý nghĩa lịch sử nhất của thế kỷ 20.

Và ngay lập tức, người dân Đông Đức đổ về phía bức tường ngăn cách Đông và Tây Bá Linh, thực hiện quyền tự do đi lại của họ giờ đã được nhà nước (...) cho phép.

Công an biên phòng Đông Đức qúa đỗi bàng hoàng, liên tục xin lệnh cấp trên vì họ không biết phải ứng xử như thế nào, nhưng lệnh không bao giờ đến. Và chỉ trong vòng vài giờ, bức tường Bá Linh chìm trong biển người.

Khi màn đêm buông xuống, hằng ngàn thanh niên Đức tay trong tay khiêu vũ không mỏi mệt từ bên này sang bên kia biên giới, một hành động được bảo đảm chắc chắn là chết tươi dưới họng súng của công an ngay trên hàng rào - nếu xảy ra 24 giờ trước đó.

Và thế giới ghi nhận đây là giờ khắc lịch sử đánh dấu sự chấm dứt cuộc chiến tranh lạnh.

Ông Harold Jaeger, một trong những công an biên phòng Đông Đức mở cửa biên giới tháng Mười Một năm 1989 hồi tưởng: “Tôi không giải phóng châu Âu, hay thả tự do cho người dân tôi, hay bất cứ điều vô nghĩa nào như thế. Đó là đám đông dân chúng trước mặt tôi và sự hỗn loạn vô vọng trong chính sự lãnh đạo của tôi đã mở cửa biên giới hôm đó,” ông nói. Và đây là lịch sử, được viết lên như một sự ngẫu nhiên, tình cờ.

Không một ai có mặt hôm tháng Mười Một đó lại có thể quên được những gì đã xảy ra. Những giòng nước mắt hân hoan khi gặp gỡ lại người thân sau những năm dài xa cách, những ôm ấp ấm áp tình người của những người hoàn toàn xa lạ lẫn nhau trước đó và bài quốc ca Đức vang rền trong trời đêm: khó mà cầm được nước mắt cho dẫu là người có trái tim vô cảm.

Không ai nghi ngờ cái ý nghĩa của biến cố này. Bức tường ô nhục ngăn cách Đông và Tây Bá Linh dài 37 cây số, với hàng rào kẽm gai, điện cao thế và mìn như một biểu tượng chia đôi châu Âu, và một khi nó sụp đổ, ai cũng cảm nhận một châu Âu (...) đang trên đường cáo chung.

Công an biên phòng Đông Đức trả lại đóa hoa người Tây Đức ném tặng, sáng ngày 10 tháng 11 năm 1989. Nguồn: Reuters
Tường, thành thường được dựng nên để ngăn người ngoài xâm nhập vào, người Trung Hoa đã đi tiên phong với ý tưởng này khi họ xây Vạn Lý Trường Thành 2.500 năm trước đây. Tuy nhiên, bức tường Bá Linh được nhà nước (...) xây lại không nhằm mục đích ngăn chận người ngoài; thay vào đó, nhằm ngăn chận công dân của chính mình bỏ nước ra đi.

Nếu không có bức tường này, có lẽ Đông Đức đã không còn tồn tại ngay vào đầu thập niên 1960. Chủ nghĩa (...) ở châu Âu đã chứng minh là toàn toàn bị thất bại và nó chỉ có thể tồn tại được bằng cách xây tường và nhà tù “nhốt” dân của mình lại.

Thực ra, bức tường này đã sụp đổ trước đó chứ không phải đến ngày 9 tháng Mười Một năm 1989; vì tuy mìn, điện cao thế và kẽm gai đã giam hãm được thân xác con người, nhưng bức tường này không ngăn được tư tưởng, thông tin và khoa học kỹ thuật từ thế giới tự do tràn vào.

Nhà nước Đông Đức đã làm những gì họ có thể làm để xây dựng cho Đông Đức một “căn cước”, một bản thể quốc gia, nhưng người dân của chính họ vẫn tin rằng Đông Đức là một phần của nước Đức và không thể chia hai.

Nhà nước (...) đã vận dụng hệ thống tuyên truyền để nhồi sọ người dân, nhằm làm họ hãnh diện về nước (...) của mình, nhưng người dân Đông Đức bất chấp, thay vào đó họ xem truyền hình Tây Đức. Đã có chuyện khôi hài thời (...) là người dân Đông Đức sống ở bên này bức tường ban ngày, nhưng sống ở Tây Đức ban đêm khi họ bật máy truyền hình và theo dõi chương trình phát đi từ Tây Đức.

Cùng thời điểm khi bức tường Bá Linh sụp đổ, các nước vùng Đông Âu cũng đã chín muồi. Nhà nước (...) Ba Lan đồng ý chia sẻ quyền lực với những nhà bất đồng chính kiến, nhà nước Hungary hứa hẹn sẽ có bầu cử tự do và Nam Tư đang sùng sục những cuộc biểu tình đòi thay đổi.

Chỗ bé đang chơi 20 năm trước là bức tường ô nhục chia đôi nước Đức, hiện vẫn còn dấu. Nguồn: Reuters
Chỉ vài tuần sau đó, một Đông Đức (...) biến mất, và chủ nghĩa (...) ở châu Âu chuẩn bị cáo chung chỉ trong cuối năm 1989. Mười tám tháng sau, (...) tan rã. Tư tưởng và khát vọng tự do của con người một lần nữa, xuyên qua bức màn sắt và cho thấy mang nhiều tính thuyết phục hơn súng đạn.

Hai mươi năm qua đã cho thấy một Đông Âu ngày càng trở nên tốt đẹp hơn; tối thiểu, người dân đi ngủ không còn bị ám ảnh một cách hãi hùng cảnh (...) gõ cửa lúc nữa đêm hoặc sắp hàng mua lương thực theo chế độ tem phiếu của thời (...).

Đã có nhiều biến cố lịch sử xảy ra trong thời đại chúng ta đang sống, nhưng thiết tưởng không một sự kiện nào có tính thuyết phục mạnh mẽ như bức tường Bá Linh, trong thời đại toàn cầu hóa ngày nay, sự sụp đổ của bức tường Bá Linh chứng minh một điều: không một hàng rào, nhà tù nào xây nên để nhốt và trấn áp con người có thể tồn tại lâu dài với thời gian.

Và nó cũng là một bằng chứng cho thấy để điều hành tốt đẹp một đất nước, những nhu cầu căn bản và những khát vọng tự do của người dân cần được lắng nghe và tôn trọng thay vì họng súng, nhà tù và bạo lực.


© DCVOnline



Nguồn:

(1) By Jonathan Eyal, Straits Times Europe Bureau, 7 November 2009
*****************
source
DCVOnline

Wednesday, 28 October 2009

Nghệ thuật ngoại giao của bà Clinton



Đó là chặng dừng được dự đoán sẽ yên ả nhất trong chuyến đi của chúng tôi.

Bà Clinton và Philip Gordon cố gắng dàn xếp thỏa thuận (Ảnh của Bộ Ngoại giao Mỹ)

Hạ cánh xuống Zurich vào buổi sáng, đi thẳng tới Khách sạn Dolder lâu đời và sang trọng, đi dạo vài tiếng trong khi những người Thổ Nhĩ Kỳ và Armenia, với trợ giúp của Thụy Sĩ và Mỹ, soạn xong chi tiết một thỏa thuận vốn đã được bàn cãi nhiều tuần.

Chúng tôi dự định đến giờ ăn tối là mình đã ở London.

Thực sự lý do duy nhất chúng tôi dừng lại ở Zurich với Ngoại trưởng Mỹ, bà Hillary Clinton, là vì dường như mọi khúc mắc đã được tháo gỡ.

Nhưng khi một cuộc xung đột đã kéo dài gần một thế kỷ và hai phía vẫn đầy cay đắng về quá khứ và dễ nổi giận về các vấn đề, đụng chạm tận gốc rễ bản sắc của họ, lẽ ra chúng tôi nên dự kiến sẽ gặp vài vai vấp trên đường.

Lễ ký hai Nghị định thư bình thường hóa quan hệ và thành lập quan hệ ngoại giao giữa Thổ Nhĩ Kỳ và Armenia lẽ ra thực hiện lúc 17h chiều.

Đoàn xe của bà Clinton rời Khách sạn Dolder lúc 1700, hướng về Đại học Zurich và hội trường Churchill, nơi diễn ra sự kiện.

Đoàn xe dừng lại, chúng tôi lục tục bước ra nhưng bỗng được yêu cầu trở lại xe.

Cửa đóng, xe quay ngoắt đi và các phóng viên đi theo Ngoại trưởng bắt đầu đoán mò rồi thấp thỏm gọi điện.

Chúng tôi đã tới sai chỗ? Thỏa thuận đã sụp đổ?

Kịch tính

Người ta nhanh chóng nhận ra trục trặc đã xảy ra ngay phút cuối.

Chúng tôi quay lại khách sạn, đứng bên ngoài xe hơi, trong lúc Ngoại trưởng ngồi trong chiếc BMW màu đen, nghe cấp dưới báo cáo, trong đó có cả người phụ trách vùng châu Âu của bộ Ngoại giao, ông Philip Gordon.

Phía Armenia phản đối phần tuyên bố của người Thổ tại buổi lễ và chưa hề rời khách sạn. Phía Thổ thì đã có mặt tại địa điểm.

Đây là kiểu ngoại giao kịch tính cao vì thương lượng diễn ra ngay trước mắt chúng tôi.

Bà Ngoại trưởng dùng cả hai điện thoại di động để liên lạc, theo lời các viên chức, trong khi các nhân viên chạy quanh, mang giấy tờ đến cho bà, rồi chạy vào chạy ra khách sạn.

Có lúc một xe cảnh sát khởi hành, hú còi, nhưng chỉ năm phút sau đã quay về, mang theo một sấp giấy nữa - đó là tuyên bố của Thổ với phần sửa chữa viết tay từ phái đoàn Thổ vẫn đang đợi ở Đại học Zurich.

Còn tranh cãi là ai thực ra đã giúp có được thỏa thuận

Bà Clinton rốt cuộc đi vào khách sạn trong khi tất cả chúng tôi đợi chờ.

Hai tiếng sau khi buổi lễ lẽ ra bắt đầu, bà Clinton và người tương nhiệm Armenia bước ra ngoài và cùng lên xe của bà.

Lần này ông Edward Nalbandian không quay lại, mặc dù ông vẫn gọi điện cho Tổng thống ở Yerevan.

Sau đó bà Clinton nói với các phóng viên rằng bà là người nói nhiều nhất trong cuộc hội đàm, thúc giục vị Bộ trưởng đừng từ bỏ những gì đã đạt được. Bà cũng nói hai phía đã nêu ra quan ngại.

Chúng tôi đến đại học với ý nghĩ rằng buổi lễ sắp mở màn và rồi lại phải chờ thêm một chút.

Qua email, nhân viên của bà Clinton nói với chúng tôi rằng tình hình "còn dễ thay đổi".

Ngoại giao con thoi diễn ra dồn dập - người Thổ ở trong một phòng, người Armenia phòng khác trong khi các nhà trung gian Thụy Sĩ, Mỹ, Nga, Pháp và những người khác chạy qua chạy lại, mang cả đống tài liệu.

Các vị Bộ trưởng đã nhỡ chuyến bay, bà Clinton nhỡ kế hoạch ăn tối ở London nhưng một tiếng rưỡi sau, người Armenia và Thổ đặt bút ký.

Giải pháp? Không bên nào có tuyên bố công khai.

Bà Clinton đang công du Âu châu trong năm ngày

Thật là hiếm khi một buổi lễ mang tầm quan trọng lịch sử như thế lại diễn ra trong im lặng.

Ngoài thông báo của nước chủ nhà, Ngoại trưởng Thụy Sĩ Micheline Calmy-Rey, và tràng vỗ tay sau khi Nghị định thư đã ký, chẳng ai nói thêm điều gì.

Sau đó, bà Clinton bảo chúng tôi rằng tự thân Nghị định thư đã là tuyên bố - "đó là cốt lõi vấn đề, những gì mà các Nghị định thư đề cập, người ta tự do muốn nói gì thì nói, nhưng hãy để chính Nghị định thư là tuyên bố, vì trên thực tế, đó là lý do chúng tôi có mặt để ký."

Đó có thể là cách thức tốt để phủ màu tích cực lên một sự thỏa hiệp đã bộc lộ những thách thức trước mặt trong khi hai quốc gia còn cố gắng rũ bỏ nhiều năm thù hằn và sẽ gửi Nghị định thư cho hai Nghị viện thông qua, và còn gặp chống đối từ những đảng dân tộc chủ nghĩa.

Trên chuyến bay tới London, chúng tôi hỏi bà Clinton, liệu đây đã phải là thử thách ngoại giao lớn nhất cho bà.

Bà trả lời: "Đó là điều bạn phải tính đến khi bạn cố gắng giúp người ta giải quyết các vấn đề tồn tại dai dẳng."

Là thành viên báo chí đi cùng, dĩ nhiên chúng tôi chủ yếu nhận được một phiên bản các sự kiện, phiên bản của người Mỹ - vì thế có thể người Nga cảm thấy họ mới thật sự là người giúp đạt thỏa thuận, hay có khi người Pháp sẽ nói họ đã nghĩ ra giải pháp sáng tạo là không phát biểu công khai.

Nhưng chắc chắn chúng tôi đã được ngồi ngay hàng ghế đầu để quan sát trực diện bộ máy ngoại giao Hoa Kỳ.

*******************

source

BBC Vietnamese

Friday, 28 August 2009

Hungary mở cửa cho Đông Đức ra sao




Cựu thủ tướng Hungary Nemeth (BBC)

Cựu thủ tướng Hungary Miklos Nemeth tin rằng ông đã nắm được tín hiệu từ vị thế của ông Gorbachev.

"Chính tại Hungary mà viên đá đầu tiên đã được gỡ bỏ khỏi bức tường Berlin," cựu Thủ tướng Đức Helmut Kohl nói.

Người kế nhiệm của ông, bà Angela Merkel đã tới thị trấn Sopron của Hungary hôm thứ Tư để cảm ơn quốc gia này đã mở cửa biên giới của mình cách đây 20 năm. Quyết định này đã dẫn tới sự sụp đổ của bức tường nổi tiếng ba tháng sau đó.

Nhưng có một điều khá tò mò là một buổi picnic tại một cánh đồng bên ngoài Sopron đã làm thay đổi bộ mặt của Châu Âu.

Vào mùa hè năm 1989, hàng ngàn khách du lịch Đông Đức đã lên đường qua Hungary, tìm cách để tới Áo. Điều đã thúc đẩy họ chính là quyết định dũng cảm hồi đầu năm đó của vị thủ tướng theo đường lối cải cách của Hungary, Miklos Nemeth, đem gỡ bỏ hệ thống an ninh dọc theo biên giới.

"Tôi nghĩ rằng bức tường này đã lỗi thời trong thế kỷ 20," ông Nemeth nói với BBC. Một lý do nữa là Hungary, khi đó chịu quá nhiều nợ nần, đơn giản là không có đủ kinh phí 1 triệu đô-la để duy trì nó.

Robert Breitner

Robert Breitner tại khu vườn nhà thờ mà ông đã tá túc 20 năm trước.

Khi đi nghỉ trở về trong chiếc xe công vụ của mình, ông Nemeth đã bị sốc khi nhìn thấy hàng trăm thanh niên và gia đình của họ cắm trại bên ngoài tòa lãnh sự Tây Đức ở thủ đô Budapest. Nhiều người khác tìm chỗ tá túc tại Nhà thờ Gia đình Thần thánh đường bệ tọa lạc tại một quận nhiều cây cối, bóng mát ơ thủ đô Hungary.

Một trong số này là Robert Breitner, khi đó 19 tuổi. Ông này đã tới nơi mà chỉ có một bộ áo quần trên người, sau khi đánh mất ba-lô trong một lần trốn bất thành.

"Đường phố tràn đầy các loại xe hơi Đông Đức," ông hồi tưởng.

"Nhiều gia đình đến đích trong hai hoặc ba chiếc xe ô tô sau nhiều lần bỏ trốn. Họ mất chiếc xe này thì dùng chiếc khác!"

Câu chuyện của ông Breitner khá là điển hình. Vì gia đình của ông theo Cơ Đốc giáo, ông không được phép học trung học tại Cộng hòa Dân chủ Đức. Ông cũng không thể tới Liên Xô, và cũng không thể tới được Tây Đức, nơi mà hầu hết họ hàng, thành viên gia đình sinh sống.

Họ sợ chúng tôi tập hợp họ lại tại một địa điểm và trao họ về tay các giới chức chính quyền Đông Đức.

Cha Kozma

Từ năm 14 tuổi, ông đã quyết định bỏ trốn. "Tôi lớn lên chỉ cách bức tường Berlin 300 mét, nhưng với tôi, việc thử vượt nó ở đây là quá nguy hiểm," Breitner nói. Ông nghĩ tại Hung-ga-ri "khả năng bị giết chết không cao như thế".

Mật vụ Đông Đức

Người đã mở cửa vào nhà thờ là Cha Imre Kozma, người phụ trách tổ chức từ thiện 'Order of Man-ta'. Tổ chức thiện nguyện này đã dựng các lều lán và phân phối lương thực - tất cả diễn ra dưới con mắt theo dõi của mật vụ Đông Đức (Stasi) với các nhân viên được cắm ngay ở phía bên kia đường.

Cha Kozma nói rằng những người tị nạn sợ nhau và sợ cả các tình nguyện viên người Hungary.

Cha Kozma

Cha Kozma nói những người tị nạn sợ lẫn nhau.

"Họ sợ chúng tôi tập hợp họ lại tại một địa điểm và trao họ về tay các giới chức chính quyền Đông Đức."

Rồi vào tháng tám, nơi này ngập đầy các tờ rơi nói về một chuyến picnic xuyên Châu Âu.

Phe đối lập đã quyết định tổ chức sự kiện này như một buổi lễ chào mừng tình láng giềng hữu hảo, với bia và thịt nướng trên lò, ngay trên biên giới với Áo. Thế nhưng những người tị nạn còn muốn nhiều hơn là một cuộc picnic.

Ngày nay, bạn có thể lái xe hay đi bộ vào Áo mà không hề bị chất vấn. Bức màn sắt đã trở thành một bức tường để dựng xe đạp.

Tuy nhiên, hồi tháng 8/1989, vẫn còn nhiều hàng rào thép gai ở đó. Chỉ trước 3 giờ chiều hôm đó, trung tá Arpad Bella, người phụ trách trạm biên giới phía bên Hungary, thấy một đám đông nam giới, phụ nữ, thậm chí trẻ em lao chạy về phía ông.

Ngay trước mắt của ông, làn sóng đầu tiên của những người tị nạn Đông Đức xô về phía Tây một chiếc cổng bằng gỗ mà phía trên nóc được rào bằng kẽm gai. Một số khóc, số khác cười vang, ôm lấy nhau. Những người khác tiếp tục chạy vì họ không tin rằng đã ở trong phần đất của Áo.

Laszlo Nagy (BBC)

Laszlo Nagy, người tham gia tổ chức tiệc picnic xuyên Âu

Tình thế lưỡng nan

Không hề có được một chỉ dẫn rõ ràng nào từ cấp trên, Trung tá Bella quyết định không nổ súng. "Điều đó thật khủng khiếp đối với tôi!" ông nói. "Hai trăm người dân này chỉ cách tự do có mười mét. Do đó, tôi đã ra một quyết định mà tôi nghĩ là tốt nhất đối với Hungary và cho lương tâm của chính tôi."

Ở phần bên kia biên giới, chánh thanh tra người Áo, Johann Goeltl đối diện với một tình thế lưỡng nan khác. Trong cuộc chạy trốn tìm tự do, một gia đinh Đông Đức bị rớt lại một đứa con trai tám tuổi, ở bên kia cổng biên giới, mà bấy giờ đã bị đóng lại.

"Hãy làm ơn, hãy làm ơn cho cháu được đi qua," họ nài xin", Nếu không chúng tôi sẽ phải trở lại với chế độ khủng khiếp đó". Và bằng một cách nào đó, chánh thanh tra Goeltl đã làm được việc là cho cậu bé lọt qua.

Bản đồ Hung-ga-ri

Đến cuối ngày hôm đó, hơn 600 người Đông Đức đã băng qua được phía Tây. Ba tuần sau đó, khi Hungary cho mở cửa biên giới hoàn toàn, 60.000 người nữa đã tràn qua. Trong số những người đầu tiên rời đi là Robert Breitner, người đã tới kịp Berlin để chứng kiến bức tường sụp đổ.

Nhưng hơn 20 năm trôi qua, Trung tá Bella cảm thấy ông chỉ là một nhân vật trong một vở diễn phức tạp mà người đạo diễn vẫn chưa được biết đến. Vài trong số những người đã tổ chức cuộc pic-nic xuyên Châu Âu, như kỹ sư Laszlo Nagy, cũng cảm thấy các chính trị gia đã sử dụng sự kiện này để thử nghiệm xem họ có thể đưa sự việc đi xa tới đâu.

"Nếu bạn đang tham gia một cuộc thử nghiệm mà bạn không được thông báo trước, bạn cảm thấy như mình là một con sâu được người ta sử dụng làm mồi câu cá," Ông Nagy nói. "Họ ném chúng tôi xuống mực nước sâu và họ nhìn xem liệu những con cá mập có tới hay không."

Cá mập ở đây đương nhiên là Liên Xô, khi đó vẫn có tới 100.000 quân đồn trú tại Hungary. Dưới thời Mikhail Gorbachev, người Nga có vẻ được hướng về các cuộc cải cách hơn là tới các can thiệp quân sự.

Vào tháng ba năm 1989, ông Miklos Nemeth nói với nhà lãnh đạo xô-viết rằng ông có kế hoạch tháo gỡ hàng rào kẽm gai dọc theo biên giới. Ông Gorbachev đã phản ứng một cách ôn tồn và nói rằng vấn đề an ninh biên giới đó là việc của ông Nemeth, chứ không phải là việc của ông. Vị Thủ tướng Hungary coi đây như là đèn xanh đã được bật. Nhưng liệu sự việc đã có thể diễn biến khác đi?

"Chắc chắn thế, chúng tôi đã làm ra nhiều kịch bản," Ông Nemeth nói.

"Đối với tôi, điều quan trọng nhất trong thời điểm đó là tôi nhận định ra sao vị trí của ông Gorbachev trong cơ cấu quyền lực. Nếu ông ta bị của người bị hạ bệ, đá văng ra khỏi quyền lực, đã có thể có một câu chuyện khác, tôi có thể cho bạn biết."

Cũng giống như ông Gorbachev, ông Nemeth hồi hưu khỏi sự nghiệp chính trị. Ông hơi buồn vì Hungary không còn là một quốc gia dẫn đầu ở Trung Âu nữa.

Trung tá Bella và chánh thanh tra Goeltl trở thành bạn bè và thường xuyên gặp gỡ để nói chuyện về quá khứ.

Robert Breitner đi vào nghiên cứu chính trị học và hiện đang làm việc tại St Petersburg, ông hạnh phúc khi thấy cả hai phía Đông và Tây có thể làm ăn kinh doanh với nhau.

Còn đối với Cha Kozma, đã có ít thay đổi xảy ra. Ông vẫn lái một trong những chiếc xe hơi hiệu Trabants đã được những người tị nạn Đông Đức mà ông từng giúp đỡ, bỏ lại cách đây 20 năm.

*********************************************

source

BBC Vietnamese